Cao Bát - Luật
Khoa
28/01/2016
Bài tham luận của Bộ Trưởng Bùi Quang Vinh đang làm
nức lòng người dân lao động, giới tri thức Việt Nam vì sự thẳng thắn nhìn nhận
vào thực trạng trì trệ cải cách chính trị tại Việt Nam hiện nay, vốn đang trở
thành rào cản nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển đi lên của
kinh tế và xã hội Việt Nam. Nhưng nếu nhìn vào chi tiết bản tham luận, có lẽ mức
độ của nó cũng chỉ dừng lại ở “những điều trông thấy”. Chúng ta vẫn chưa nắm bắt
được vấn đề thật sự mà hệ thống chính trị mà Việt Nam đang gặp phải là gì, và
việc cải tổ hệ thống chính trị hiện nay cần phải làm những gì. Bài viết dưới
đây nhằm đóng góp một phần giải pháp cho vấn đề nêu trên.
1.
Luật hóa mối quan hệ tương quan giữa Đảng và Nhà Nước Việt Nam
Với Điều 4 Hiến Pháp Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, chúng ta biết được vai trò “đầu tàu” của Đảng Cộng Sản Việt Nam
trong tổng thể bộ máy chính trị Việt Nam.
Nhưng Đảng gây ảnh hưởng lên sự vận hành của cơ quan
nhà nước ra sao?
Thẩm quyền của Đảng đến đâu? Trong mối quan hệ nào Đảng
được phép gây ảnh hưởng lên bộ máy nhà nước? Và nếu có thì thực hành như thế
nào?
Có cần cơ chế kiểm soát hay không?
Hệ thống trách nhiệm của các cơ quan Đảng đến đâu?
Ai xử lý?
Hay vấn đề tài chính vẫn thường xuyên được người dân
và các nhà nghiên cứu đặt ra mỗi kỳ đại hội đảng. Tại sao một ngân sách công vốn
cần được dùng cho các chính sách cộng đồng lại phải gánh chịu chi phí hoạt động
và lương bổng cho cả một hệ thống chính trị từ Đảng, Hội, Đoàn chính thống là
câu hỏi lớn.
Luật hoạt động Đảng Cộng Sản là một văn bản có thể
tránh né, nhưng vấn đề thể chế không vì thế mà mất đi. Đảng Cộng Sản Việt Nam cần
nghiêm túc nhìn nhận mình chỉ có vai trò lãnh đạo, không phải là thống trị bộ
máy nhà nước. Vậy nên, dùng Điều lệ Đảng hay Nghị quyết Đảng để điều
chỉnh mối quan hệ giữa Đảng và Nhà Nước – một cách thẳng thắn – là phi pháp quyền,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến mô hình pháp chế mà chúng ta được cho là phải hướng
đến.
2.
Loại bỏ “căn cước Đảng” trong tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự
Chúng ta chắc chắn không còn duy trì được nguyên tắc
“vừa hồng, vừa chuyên” nếu thật sự muốn cải cách toàn diện hệ thống chính trị.
Sẽ không thể nào lý giải bằng những quy tắc logic pháp lý và kinh tế thông thường
đối với việc Bộ Trưởng Bộ Công Thương lại cần phải là ủy viên Trung Ương Đảng,
hay thậm chí các chức danh tư pháp thuần chất kỹ thuật như Thẩm Phán của một
tòa thương mại lại phải là đảng viên?
Gần đây, sau khi rầm rộ tổ chức cuộc thi tuyển công
khai vị trí hiệu trưởng trường Đại học Luật Hà Nội và một vị luật sư có tên tuổi
trúng tuyển, Bộ Tư Pháp cũng đã hoãn vô thời hạn việc bổ nhiệm vị luật sư
này để bổ nhiệm một chính khách có “nền tảng Đảng” cơ bản hơn.
Mô hình phân phối nhân sự này gây lãng phí nghiêm trọng
nguồn tài nguyên chất xám có năng lực và kinh nghiệm đang rất muốn cống hiến
cho nhà nước và xã hội; trong khi các cơ quan nhà nước cho là đang phải “vơ
vét” tìm kiếm cán bộ đủ tiêu chuẩn “Đảng” để bổ nhiệm.
Thừa nhận và áp dụng rộng khắp việc tuyển dụng và bổ
nhiệm các cá nhân xuất sắc về mặt chuyên môn, ở cấp độ địa phương lẫn trung
ương, chắc chắn sẽ tạo được làn sóng cải cách, hoàn thiện cơ cấu cũng như tăng
cường năng suất làm việc của cơ quan nhà nước.
3.
Ngừng “Đảng hóa” các tổ chức dân sự
Khi nói đến hệ thống Hội, Đoàn tại Việt Nam, chúng
ta không chỉ nói đến Đoàn Thanh Niên; hay Hội Phụ Nữ, Hội Nông Dân, Hội Người
Cao Tuổi… vốn là các tổ chức chính trị nòng cốt tập hợp trong Mặt Trận Tổ Quốc
Việt Nam. Hầu như mọi hiệp hội nghề nghiệp xã hội khác cũng có sự nhúng tay trực
tiếp của Đảng như Đoàn Luật Sư, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội xuất khẩu,
thậm chí kể cả Hội Sinh Viên hay Hội Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng trong vụ
bê bối Tân Hiệp Pháp mới đây… Quy trình “quốc hữu hóa” những tổ
chức đáng lẽ phải được tự thân vận hành và phát triển cũng tương tự như quá
trình tập trung và quốc hữu hóa kinh tế trước đây, làm mất đi tính sáng tạo và
trách nhiệm xã hội vốn có của chúng.
Thay
vì trở thành trung tâm ý tưởng, bảo vệ quyền lợi xã hội, tạo tiếng nói đối trọng,
kiểm tra, giám sát, đóng góp vào quá trình hiệp thương, quản lý kinh tế…
sự lệ thuộc kinh tế và ý thức hệ nghiễm nhiên biến các tổ chức này trở
thành các những cánh tay nối dài của Đảng Cộng Sản.
Cũng nên xóa bỏ thế độc quyền của Đoàn Thanh
Niên và Hội Sinh Viên trong các cơ sở trung học và trường đại học với
tư cách là một phần của hệ thống quản lý; khuyến khích tự do hoạt động dân sự của
các tổ chức, hội đoàn độc lập là cách tốt nhất để làm quen với một mô hình dân
chủ thực thụ. Việc này đồng thời giúp nhà nước tận dụng được những ý kiến cải
cách, tạo không gian chính trị nơi mà hiệu quả và khả năng hoạt động, bảo vệ
công dân của các tổ chức dân sự được đặt lên hàng đầu sẽ quyết định sự thành
công của tổ chức đó.
4.
Tư nhân báo chí
Nghe có vẻ rất khó thực hiện, nhưng việc hình thành
hệ thống doanh nghiệp tư nhân đối trọng với thành phần kinh tế quốc doanh có lẽ
còn khó nghe hơn vào những năm 80. Thực tế hệ thống pháp luật về báo chí tại Việt
Nam hiện nay đã tương đối quy củ và chi tiết, nếu chưa kể đến các văn bản kiểm
soát báo chí một cách gián tiếp và có tính nghiêm khắc hơn như pháp luật hành
chính hay pháp luật hình sự. Vì vậy, vấn đề không còn nằm ở việc bảo vệ chế độ
ra sao, mà là bảo vệ quyền tự do báo chí ra sao.
Pháp luật báo chí cũng như hình sự, hành chính cần đặt
ra các biện pháp bảo vệ phóng viên, nhà báo khỏi các cáo buộc phi lý từ một số
cá nhân, nhóm lợi ích nắm quyền nhằm duy trì công cuộc phòng chống tham nhũng,
nơi mà chỉ có giới này có đủ dũng khí và chuyên môn để theo đuổi. Các nguyên tắc
bảo vệ nền tự do báo chí, hay ít nhất là tự do báo chí trong cuộc chiến chống
tham nhũng, như prior-restraint haypublic official
treatment đã từng được giới thiệu trong bài viết 4 án lệ định hình tự do báo chí tại Hoa Kỳ sẽ là
những tham khảo vô cùng đáng giá.
5.
Loại bỏ cơ chế “Đảng cử, dân bầu”
Cơ chế “Đảng cử, dân bầu” có thể nói là một thất bại
hoàn toàn trong nỗ lực thực hiện hóa quy trình dân chủ tại Việt Nam. Các quyết
định nhân sự vẫn còn nằm gọn trong tay Đảng và tiếng nói của người dân – nhìn
vào thực tế – chỉ là hình thức.
Việc đổ lỗi cho “suy thoái đạo đức”, “đánh mất tinh
thần cách mạng” sẽ không bao giờ giúp giải quyết triệt để mục tiêu kiểm soát và
cân bằng quyền lực quá lớn của hệ thống vốn trước đây chỉ có thể trông chờ vào
“sự sáng suốt” của Đảng. Điều gì sẽ xảy ra nếu một cơ quan hoặc một cá nhân
lãnh đạo Đảng không đủ sáng suốt và phạm sai lầm? Đó chắc chắn phải là sự tham
gia của nhân dân, hay ít ra là cơ chế dân chủ đại diện như Hội Đồng Nhân Dân và
Quốc Hội trong quá trình chủ động lựa chọn, bầu, bãi nhiệm hay miễn nhiệm một vị
trí cụ thể.
Vấn đề của hệ thống bầu cử, bãi nhiệm – miễn nhiệm
này, nếu nói đơn giản hơn, chỉ là khái niệm “check and balance” rất đơn giản và
phổ biến ở hầu hết các quốc gia pháp quyền. Tổ chức Đảng ở cơ sở và trung ương
nắm quyền ứng cử, đề cử; sau đó nếu muốn xử lý mặt chức vụ của người này trước
tiên cũng phải thông qua chức vụ Đảng của họ. Điều này có nghĩa là gần
như nắm mọi quyết sách liên quan đến nhân sự đều do Đảng quyết định mà không
thuộc thẩm quyền xử lý của bất kỳ chính thể đại diện nào. Đây là lỗ hổng
pháp lý lớn nhất nếu muốn hướng tới một hệ thống có kiểm tra, giám sát.
6.
Xóa bỏ hoàn toàn vị thế của doanh nghiệp nhà nước
Có lẽ sẽ có người nêu tên Viettel để khẳng định
“thành công vang dội” của mô hình kinh tế nhà nước. Nhưng nếu thật sự so sánh
tương quan nguồn tài lực mà Viettel đang nắm giữ (về số lượng bất động sản sở hữu,
nguồn tài chính, cơ sở hạ tầng đáng lẽ phải được sử dụng cho mục đích quốc
phòng), thành công của Viettel thật sự không đáng với những gì quốc dân phải bỏ
ra.
Không chỉ gây bất bình trong phương thức quản trị, bổ
nhiệm; hầu như các tập đoàn nhà nước ở mọi quy mô chỉ tạo điều kiện cho chủ
nghĩa tư bản thân hữu phát triển mạnh hơn tại Việt Nam mà không đóng góp thực tế
gì cho mặt bằng năng suất lao động nói chung.
Nhìn chung, những biện pháp cải cách thể chế chính
trị cần nhất quán và mạnh mẽ đi từ các nguyên tắc hệ thống (như Luật về Đảng, vấn
đề căn cước Đảng hay doanh nghiệp nhà nước) cho đến tăng cường và bảo vệ quyền
của các chính thể ngoài nhà nước (Hội, đoàn; báo chí và người dân) sẽ giúp thay
đổi và duy trì sự ổn định của hệ thống chính trị tại Việt Nam trong một thời
gian dài. Nhưng bản chất thật sự của mô hình đơn đảng hiện tại chắc chắn vẫn
còn quá nhiều rủi ro bất ổn không thể loại trừ.
No comments:
Post a Comment