28/01/2016 19:09:00
Ngày
nay câu hỏi về sự tương tác giữa khoa học và con người không còn chỉ là một vấn
đề có tính chất học thuật nữa nhưng phải có một ý nghĩa cấp bách cho tất cả những
ai quan tâm đến vận mạng của loài người. Cho nên, dường như đối với tôi thì một
cuộc đối thoại giữa khoa thần kinh học và xã hội có thể giúp để làm sâu sắc hơn
sự thấu hiểu căn bản của chúng ta về điều gì có nghĩa là con người bằng việc
xác định rõ đặc điểm những trách nhiệm đối với tự nhiên mà chúng ta chia sẻ với
những chúng sanh khác. Tôi vui mừng để đề cập rằng, như một bộ phận của sự tương
tác rộng rãi hơn này, một số nhà thần kinh học đang cho thấy ngày càng thích
thú hơn trong việc tham gia vào những cuộc đàm luận sâu sắc hơn với những
nguyên tắc quán chiếu của Đạo Phật.
Tại
Sao Một Tu Sĩ Phật Giáo Lại Quan Tâm Đến Khoa Học?
TRONG NHỮNG THẬP NIÊN gần đây, chúng ta đã chứng kiến
những sự tiến bộ phi thường trong sự thấu hiểu của khoa học về não bộ và thân
thể con người, và cùng với những sự phát triển mới về di truyền học, sự khảo
sát về chức năng của sinh vật sống bây giờ đã đạt đến một trình độ rất vi tế về
gien cá nhân. Những khả năng không tưởng đến trước đây cho việc vận dụng chính
những mã của con người đã có kết quả từ việc này. Một hình thể mới toàn bộ về
thực tại bây giờ đang hiện lên cho con người.
Ngày nay câu hỏi về sự tương tác giữa khoa học và
con người không còn chỉ là một vấn đề có tính chất học thuật nữa nhưng phải có
một ý nghĩa cấp bách cho tất cả những ai quan tâm đến vận mạng của loài người.
Cho nên, dường như đối với tôi thì một cuộc đối thoại giữa khoa thần kinh học và
xã hội có thể giúp để làm sâu sắc hơn sự thấu hiểu căn bản của chúng ta về điều
gì có nghĩa là con người bằng việc xác định rõ đặc điểm những trách nhiệm đối với
tự nhiên mà chúng ta chia sẻ với những chúng sanh khác. Tôi vui mừng để đề cập
rằng, như một bộ phận của sự tương tác rộng rãi hơn này, một số nhà thần
kinh học đang cho thấy ngày càng thích thú hơn trong việc tham gia vào những cuộc
đàm luận sâu sắc hơn với những nguyên tắc quán chiếu của Đạo Phật.
Tôi đã bắt đầu tiếp cận đến khoa học với sự tò mò của
một cậu bé không thể thỏa mãn vốn lớn lên ở Tây Tạng. Sau đó tôi dần dần nhận
biết về tầm quan trọng to lớn của khoa học và kỷ thuật trong sự thấu hiểu thế
giới đương thời. Không phải tôi chỉ cố gắng để hiểu những khái niệm khoa học,
nhưng tôi cũng muốn khám phá quan hệ mật thiết rộng rãi hơn của những tiến bộ gần
đây trong khoa học về lãnh vực tri thức con người và năng lực kỷ thuật. Những
thế giới đặc thù của khoa học mà tôi đã khám phá trải qua bao năm là vật lý hạ
nguyên tử, vũ trụ học, sinh học, và tâm lý học. Sự hiểu biết giới hạn mà tôi có
được trong những môn này, tôi nhờ và hàm ơn Carl von Weizsacker[1] và David
Bohm[2] đã
rộng rãi chia sẻ với tôi. Tôi biết ơn họ một cách sâu sắc, và tôi xem họ như
giáo sư của tôi về cơ học lượng tử. Về sinh học và thần kinh học, vị thầy của
tôi là Robert Livingstone[3] và Francisco Varela[4], cả hai đều đã
qua đời. Tôi cũng hàm ơn rất nhiều đến nhiều vị học giả ưu việt mà với các vị ấy
tôi đã có đặc ân đàm luận dưới sự bảo trợ của một học viện khởi đầu những hội
nghị "Tâm Thức và Đời Sống" tại nơi cư trú của tôi ở Dharamsala, Ấn Độ,
năm 1987. Những cuộc đàm luận này tiếp tục theo thời gian, và chúng tôi đã kết
thúc lần cuối cùng ở thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa Kỳ, vào tuần này.
Carl von Weizsacker
và Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tôi hiểu rằng nhiều người trong quý vị tự hỏi,
"Tại sao một tu sĩ Phật Giáo lại quá thích thú với khoa học? Có sự liên kết
gì ở đấy giữa khoa học và Phật Giáo, một truyền thống triết học cổ xưa của Ấn Độ
và tâm linh? Lợi ích gì có thể để cho một môn như thần kinh học có được bằng việc
dấn thân trong một cuộc đàm luận với truyền thống quán chiếu của Phật Giáo?
Mặc dù truyền thống của chúng tôi và khoa học đương
đại đã tiến hóa từ những nguồn gốc lịch sử, trí tuệ, và văn hóa khác nhau nhưng
tôi tin tưởng rằng từ chiều sâu, chúng chia sẻ một quan điểm triết học và
phương pháp học giống nhau. Ở trình độ triết học, Phật Giáo và khoa học hiện đại
đều nghi ngờ về bất cứ khái niệm tuyệt đối nào, cho dù nó trình bày tự nó như một
bản chất siêu việt, một nguyên tắc vĩnh cửu, bất biến, chẳng hạn như linh hồn,
hay như một nền tảng cơ bản của thực tại. Phật Giáo và khoa học đưa ra tầm quan
trọng của sự tiến hóa và sự hiện hữu của vũ trụ và đời sống, trong hình thức của
những mối liên hệ hổ tương phức tạp xuất phát từ quy luật tự nhiên của nhân quả.
Như đối với phương pháp học của chúng, cả hai truyền
thống đều nhấn mạnh vào vai trò của kinh nghiệm luận. Vì vậy, trong sự khảo sát
của Phật Giáo, từ ba nguồn tri thức - kinh nghiệm, lý trí, và sự chứng nhận - bằng
chứng thực nghiệm là đầu tiên, với lý trí thứ hai và sự chứng nhận là cuối
cùng. Điều đó có nghĩa là, trong Phật Giáo vấn đề thực tại, tối thiểu ở trình độ
nguyên tắc, bằng chứng thực nghiệm giữ vai trò thống soái đối với thẩm quyền của
kinh điển, bất chấp một kinh điển có thể được tôn kính như thế nào. Thậm chí
trong trường hợp tri thức bị giảm thiểu bởi lý trí hay suy luận, thì giá trị rốt
cùngcủa nó phải được thừa nhận bằng kinh nghiệm thực tế.
Do bởi quan điểm phương pháp học này, tôi thường
trình bày với những đồng nghiệp Phật Giáo của tôi rằng những khám phá được thẩm
tra thực nghiệm qua thiên văn học hiện đại bắt buộc chúng ta phải điều chỉnh,
và trong một vài trường hợp, phải phủ nhận nhiều khía cạnh của vũ trụ học truyền
thống được giải thích trong những luận điển tôn giáo cổ truyền.
David Bohm và Đức Đạt
Lai Lạt Ma
Vì Phật Giáo phân tích về thực tại với động cơ chính
là việc tìm kiếm cơ sở để vượt thắng khổ đau và hoàn thiện tình trạng con người,
cho nên định hướng chính của truyền thống khảo sát là để thấu hiểu tâm thức con
người và những cách biểu hiện khác nhau các chức năng của nó. Sự tiên đoán là bằng
việc thu thập một sự thấu hiểu thậm thâm hơn về tinh thần, thì chúng ta sẽ tìm
ra cách để chuyển hóa những tư tưởng, cảm xúc của chúng ta, và những xu hướng
tiềm ẩn của chúng để vạch ra một cung cách sống lành mạnh hơn, thỏa mãn hơn.
Trong một phạm trù như vậy, truyền thống Phật Giáo
đã cung cấp một sự phân loại đầy đủ những tình trạng tinh thần, cũng như những
phương pháp quán chiếu hướng đến việc làm tinh tế hơn những phẩm chất nào đó của
tâm thức. Một sự thay đổi xác thật đã được thiết lập giữa kiến thức và kinh
nghiệm tích tập của Phật Giáo và khoa học hiện đại trên những vấn đề lớn hơn đối
diện với tâm thức con người, từ việc nhận thức và những cảm xúc đến sự thấu hiểu
về năng lực vốn có của não bộ cho việc chuyển hóa. Sự đối thoại này hóa ra là
việc rất hấp dẫn và lợi ích sâu sắc. Về phần của tôi, tôi đã rút ra nhiều điều
từ cuộc trò chuyện của tôi với những nhà thần kinh học và tâm lý học khi chúng
tôi thảo luận về bản chất và vai trò của những cảm xúc tích cực và tiêu cực, của
sự chú ý, tưởng tượng, và tính tạo hình của não bộ. Bằng chứng không thể chối
cãi được được trang bị bởi thần kinh học và y học về vai trò thiết yếu của tình
cảm được truyền đạt bởi sự xúc chạm thân thể giản dị trong việc quan tâm đến sự
phát triển vật lý của não bộ một trẻ em mới sanh trong tuần lễ đầu tiên của đời
sống xác nhận sự nối kết giữa từ bi và sự tìm kiếm của con người cho hạnh phúc.
Nhân
Loại Đang ở Tại Một Bước Ngoặt
TÔI TIN CHẮC RẰNG một sự hợp tác gần gũi giữa hai
truyền thống, Phật Giáo và khoa học, có thể đóng góp một cách quan trọng cho việc
phát triển một sự thấu hiểu về thế giới phức tạp nội tại của kinh nghiệm chủ
quan mà chúng ta gọi là tâm thức. Những lợi ích của một sự hợp tác như vậy là
đã được chứng tỏ rồi. Theo các báo cáo sơ khởi, những hiệu quả của việc
rèn luyện tâm thức, chẳng hạn như thực tập chính niệm đơn giản trên căn bản
thông thường hay việc phát triển từ bi trong ý nghĩa của Phật Giáo, đã kích
thích cho những thay đổi có thể thấy được trong những lãnh vực của não bộ liên
hệ tới các thể trạng tích cực tinh thần. Những sự thay đổi này đã được lượng định,
và những khám phá mới đây trong thần kinh học đã chứng minh sự nhu nhuyến của
não bộ, trong dạng thức của cả những nối kết của thời kỳ tiếp hợp và sản sinh
những thần kinh mới qua sự kích thích ngoại tại chẳng hạn như những rèn luyện
thân thể tự nguyện hay một môi trường phong phú.
Francisco Javier
Varela và Đức Đạt Lai Lạt Ma
Truyền thống quán chiếu của Phật Giáo có thể giúp để
mở rộng lãnh vực nghiên cứu này của khoa học bằng việc cung ứng những hình thức
của việc rèn luyện tâm thức phối hợp với sự nhu nhuyến của não bộ. Nếu nó chứng
tỏ, như truyền thống Phật Giáo đề cập, rằng sự thực hành tinh thần có thể ảnh
hưởng đáng kể thời kỳ tiếp hợp và sự thay đổi các thần kinh trong não bộ, thì
điều này có thể có những ý nghĩa quan trọng. Những kết quả của sự nghiên cứu
như vậy sẽ không bị giới hạn với sự phát triển kiến thức của chúng ta về não bộ
con người. Có lẻ một cách quan trọng hơn, chúng có thể cống hiến đến sự thấu hiểu
của chúng ta về giáo dục và sức khỏe tinh thần. Tương tự thế, nếu, như truyền
thống Phật Giáo thừa nhận, sự thực tập cẩn trọng về từ bi có thể mang đến một sự
thay đổi rõ ràng trong quan điểm của một cá nhân, dẫn đến một sự thấu cảm lớn
hơn cho người khác, điều này có thể có những hệ quả quan trọng cho xã hội một
cách tổng quát.
Cuối cùng tôi tin rằng sự hợp tác giữa thần kinh học
và truyền thống quán chiếu của Đạo Phật có thể tỏa ra một ánh sáng mới cho những
cái chung giữa đạo đức học và thần kinh học, vốn quan trọng cho sự sống. Bất cứ
điều gì chúng ta nghĩ về mối quan hệ giữa đạo đức học và khoa học, trong thực
hành thật sự, khoa học liên hệ trước như một nguyên tắc kinh nghiệm, đạo đức,
trung tính. Thành ra nó được nhìn nhận một cách chính yếu như một phương pháp
khảo sát vốn cung ứng một kiến thức chi tiết của thế giới kinh nghiệm và những
quy luật tiềm tàng của tự nhiên.
Từ một quan điểm thuần khoa học, việc tạo ra vũ khí
nguyên tử đại diện cho một thành tựu đáng chú ý. Tuy nhiên, vì những vũ khí này
có năng lực gây ra một sự khổ đau rộng lớn khủng khiếp bằng việc làm chết chóc
và sự tàn phá vô số, cho nên chúng ta phải xem sự thành tựu này như một điều
sai lầm của khoa học.
Chính sự lượng định đạo đức cho phép chúng ta quyết
định điều gì là tích cực hay tiêu cực trong khoa học. Cho mới đến gần đây, dường
như rằng đạo đức học và khoa học đã được phân chia một cách thành công, với sự
thấu hiểu rằng năng lực con người cho việc suy nghĩ đạo đức tiến hóa cùng với
tri thức. Tuy nhiên, ngày nay, tôi tin rằng nhân loại đang ở tại một bước
ngoặt. Những tiến bộ căn bản trong thần kinh học, một cách đặc biệt trong
di truyền học, vào cuối thế kỷ 20, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
loài người. Chúng ta đã đạt đến một chỗ mà những thách thức đạo đức được đưa ra
bởi những sự tiến bộ này là quá rộng lớn.
Rõ ràng, tư duy đạo đức của chúng ta đã không theo kịp
sự phát triển tri thức và năng lực mà nó có như vậy. Nhưng sự phân nhánh của những
khám phá mới này và sự áp dụng của chúng là rất hiệu quả mà chính nhận thức của
chúng ta về bản chất con người và sự duy trì loài người chúng ta phải thử thách
với sự chính xác của nó. Cho nên không còn có thể chấp nhận việc thừa nhận quan
điểm rằng trách nhiệm của chúng ta như một xã hội một cách đơn giản là để hổ trợ
tri thức khoa học và củng cố năng lực của kỷ thuật, chúng ta hãy để mở vấn đề
những gì nên được thực hiện. Chúng ta phải tìm một cung cách để cho phép những
sự cân nhắc nhân đạo và đạo đức quyết định phương hướng của tiến trình khoa học,
một cách đặc biệt trong khoa học đời sống.
Bằng việc viện dẫn những nguyên tắc đạo đức, tôi
không đang tán thành một sự hợp nhất giữa đạo đức tôn giáo và nghiên cứu khoa học.
Đúng hơn là tôi đang liên hệ đến điều tôi gọi là "đạo đức thế tục,"
nó bao gồm những nguyên tắc đạo đức then chốt chẳng hạn như từ ái, bi mẫn,
bao dung, ân cần, và việc sử dụng có trách nhiệm khoa học và năng lượng. Những
nguyên tắc này vượt lên trên ranh giới giữa tín ngưỡng và không tín ngưỡng,
cũng như giữa những môn đồ của các tôn giáo khác nhau. Thế giới mà chúng
ta sống là một thế giới. Kinh tế, truyền thông, du lịch quốc tế, và những vấn nạn
môi trường, tất cả, nhắc chúng ta nhớ một căn bản hàng ngày vấn đề liên hệ nhân
duyên hổ tương như thế nào trong thế giới hiện đại. Những cộng đồng khoa học
đóng một vai trò quan trọng trong thế giới liên hệ nhân duyên hổ tương này.
Khoa học ngày nay có được một sự tôn trọng và tin tưởng của xã hội, lớn hơn nhiều
so với những nguyên tắc triết lý và tôn giáo của tôi. Tôi kêu gọi những nhà học
giả đem vào việc làm chuyên môn của họ những giá trị xuất phát từ những nguyên
tắc đạo dức căn bản mà tất cả chúng ta chia sẻ như những con người.
Đạo
Đức Trong Khoa Học Để Cứu Hộ Sự Sống
TÔI THẤY MỘT DẤU HIỆU đáng khích lệ trong tính thích
hợp gia tăng giữa khoa học và tôn giáo. Suốt thế kỷ 19 và phần lớn thế kỷ 20,
có một sự hổn độn sâu sắc do bởi xung đột giữa hai quan điểm dường như
mâu thuẩn này của thế giới. Vật lý học, sinh học và tâm lý học ngày nay đạt đến
một những trình độ phức tạp đến nổi nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu bằng việc hỏi
những câu hỏi sâu sắc về bản chất rốt ráo của vũ trụ và sự sống - những câu hỏi
tương tự là cho sự quan tâm chính yếu về lãnh vực của những tôn giáo. Thế nên
năng lực thật sự cho một viễn kiến thống nhất hơn thật sự hiện hữu. Một cách đặc
biệt hơn, một khái niệm mới về tâm thức và vật chất dường như hiện lên. Một
cách lịch sử, phương Đông quan tâm hơn về việc thấu hiểu tâm thức và phương Tây
liên hệ hơn trong việc thấu hiểu vật chất. Bây giờ cả hai đã gặp nhau, những
khái niệm về tâm linh và vật chất về sự sống có thể gặp gở để làm hài hòa nhau.
Chúng ta phải làm mới những chí nguyện của chúng ta
với những giá trị nhân bản trong khoa học. Mặc dù mục tiêu chính của khoa học
là để thành tựu những tri thức chưa bao giờ có về thực tại, thì mặt khác mục
tiêu của nó là để cải thiện phẩm chất của đời sống. Không có động cơ vị tha,
các nhà khoa học không thể phân biệt giữa những kỷ thuật lợi ích và những
thủ đoạn tai hại ngắn hạn. Sự tổn hại đối với môi trường chung quanh chúng ta
là hậu quả rõ ràng nhất cho sự rối rắm này. Một động cơ thích hợp thậm chí cấp
bách hơn khi nó là một câu hỏi của việc quản lý quang phổ ngoại hạng của công
nghệ sinh học mới mà với nó bây giờ chúng ta có thể tác động đến những cấu trúc
vi tế của sinh vật sống. Nếu chúng ta không đặt căn bản những thao tác này trên
nền tảng đạo đức, thì chúng ta có hiểm họa làm ra những tổn hại không thể khắc
phục với mạng lưới phức tạp của sự sống.
***
Đức Đạt Lai Lạt Ma nghĩ rằng Phật Giáo hiện nay của
chúng ta nên lãnh một trách nhiệm đặc biệt, một thứ xuất phát từ giáo huấn của
Đức Phật vốn đặt vị trí của việc thiền tập vào mối lệ thuộc hổ tương như không
thể tách rời với sự thực hành về từ bi. Khái niệm lệ thuộc hổ tương, như nó được
trình bày bởi Đức Phật 2,500 năm về trước và sau đó được luận giải bởi những hiền
nhân của Ấn Độ và Tây Tạng cổ xưa, thích hợp với quan kiến của thế giới xuất
phát từ sự tương đối phổ thông và sự phát triển tiếp theo đấy. Trong chủ đề
này, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường trích dẫn Abdul Kalam, người mà ngài gọi là
"Shakharov của Ấn Độ." Vị cựu tổng thống Ấn Độ này, một chuyên gia về
vật lý nguyên tử, đã nói với Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng ông đã khám phá bản chất
không chắc chắn của lượng tử trong tư duy của hiền nhân Ấn Độ, Long Thọ, như được
biểu lộ trong những dòng kệ tán dương Đức Phật:
Tôi kính lễ Ngài, bậc siêu việt thế giới,
Thiện xảo trong trí tuệ của sự không có!
Vì lợi ích của thế giới
Ngài đã khổ đau trong một thời gian dài, với lòng đại
bi
Ngài thừa nhận rằng bên cạnh với những tập hợp uẩn
đơn giản
Không có chúng sanh nào tồn tại.
Tuy nhiên, Ô bậc Đại Hiền Nhân, Ngài liên tục duy
trì
Hoàn toàn tận tụy vì lợi ích của chúng sanh.
Một vật hiện hữu là không sanh,
Cũng không là một vật không tồn tại, cũng không phải
cả hai.
Nó được sanh không phải từ tự nó cũng không phải từ
thứ khác,
Cũng không phải từ cả hai, vậy thì làm sao có sự
sanh?
Trước tiên nhất, không hợp lý cho một kết quả hiện
ra
Từ một nhân mà nó tự hủy diệt;
Nó cũng không được sanh từ một nhân không hủy diệt.
Cho nên Ngài chấp nhận sự sanh giống như một giấc mộng.
Sự hiện ra của những kết quả từ một nhân
Qua sự tàn phá hay không tàn phá,
Sự sanh này giống như sự biểu hiện của một vọng tưởng,
Và Ngài đã dạy rằng điều này là thật đối với mọi thứ.
Bất cứ điều gì được sanh ra trong sự lệ thuộc
Ngài xác nhận là trống rỗng
Rằng nó không tồn tại như một thực thể độc lập,
Đó là điều mà Ngài tuyên bố với tiếng rống của sư tử,
Ô bậc Đạo sư vô tỉ
Vì Ngài dạy về cam lồ tánh không
Nhằm để giúp chúng ta từ bỏ mọi khái niệm,
Ngài lên án một cách mạnh mẽ
Hành động bị dính mắc với tánh không này,
Vì mọi hiện tượng là trì trệ, lệ thuộc, và trống rỗng,
Tương tự như một ảo ảnh và được sanh từ những điều
kiện
Ngài làm nó được biết rằng chúng không có thực tại.
Không thâm nhập vào thiền quán,
Như đấng Tôn Quý đã chứng minh,
Sự tỉnh giác có bao giờ hành động mà không có biểu
tượng không?
Không có sự thâm nhập vào sự vắng mặt của những biểu
tượng
Thì không có sự giải thoát, Ngài đã tuyên bố.
Thế nên Ngài trình bày sự vắng mặt của biểu tượng
Một cách hoàn toàn trong những kinh điển Đại Thừa.
Bằng việc tán thán Ngài, Ô bậc hiện thân từ bi tôn
kính
Cảm ơn tất cả những công đức mà tôi đã đạt được,
Nguyện cho tất cả chúng sanh, không trừ một ai,
Giải thoát khỏi sự nô lệ với những biểu tượng.
Thảm Họa 11 Tháng
Chín 2001
Thảm
Họa 11 Tháng Chín 2001,
Đã Dạy
Tôi Rằng Chúng Ta Không Được
Tách
Rời Đạo Đức Với Sự Tiến Bộ
NHỮNG CẢM XÚC TÀN PHÁ như sân hận, sợ hãi, hay thù
oán có thể có những hệ quả tàn phá trên thế giới. Khi những sự kiện hiện
tại cung ứng cho chúng ta một sự nhắc nhở bi thảm của sức mạnh tàn phá của những
cảm xúc này, thì chúng ta nên hỏi chính mình rằng chúng ta có thể kiểm soát
chúng như thế nào. Dĩ nhiên, chúng luôn luôn là một bộ phận của điều kiện con
người. Nhân loại đã bám víu chúng hàng nghìn năm. Nhưng tôi tin rằng chúng ta
nên nắm bắt cơ hội này để chuyển hóa chúng, cảm ơn một cách đặc biệt sự hợp tác
giữa tôn giáo và khoa học. Chính là với tư tưởng này trong đầu mà bắt đầu từ
năm 1987 tôi đã trở thành liên hệ với một loạt những cuộc đối thoại được tổ chức
bởi viện Tâm Thức và Đời Sống; tôi thấy rằng trong khi những khám phá khoa học
cống hiến một sự thấu hiểu sâu sắc hơn trong những lãnh vực của tri thức như vũ
trụ học, thì những sự giải thích của Phật Giáo có thể giúp những học giả thấy
lãnh vực nghiên cứu của họ trong một ánh sáng khác.
Sự đối thoại của chúng tôi không chỉ lợi ích cho
khoa học mà cả tôn giáo. Mặc dù người Tây Tạng có những tri thức giá trị về thế
giới nội tại, nhưng chúng tôi vẫn xa rời với sự tiến bộ vật chất do bởi thiếu
tri thức khoa học. Giáo huấn nhà Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thấu hiểu
thực tại; do thế, chúng ta nên thẩm tra vấn đề những nhà khoa học đương đại thấy
thực tại như thế nào qua sự khám phá bằng những thực nghiệm của họ và chỉ số của
họ.
Vào lúc đầu của những cuộc đối thoại này, không có
nhiều Phật tử. Tôi là người duy nhất, làm việc với hai người thông dịch. Nhưng
gần đây, chúng tôi đã bắt đầu giới thiệu những môn khoa học hiện đại trong các
tu viện của chúng tôi, và trong những buổi đối thoại gần đây có khoảng hai mươi
tu sĩ Tây Tạng trong tham dự.
Mục tiêu của những cuộc đàm luận này là hai phần. Một
là của tính chất học thuật: việc phát triển tri thức. Trong tổng quát, khoa học
tiêu biểu cho một khí cụ phi thường để thấu hiểu thế giới vật chất, và nó đã tạo
ra những sự tiến bộ khổng lồ trong đời sống của chúng ta, mặc dù nhiều thứ vẫn
còn đang được khám phá. Nhưng khoa học hiện đại dường như không tiến triển nhiều
tương hợp với sự chú ý kinh nghiệm nội tại.Về mặt khác, Phật Giáo, một hệ thống
tư tưởng Ấn Độ cổ xưa, biểu lộ một sự phân tích thậm thâm về vấn đề tâm thức thể
hiện chức năng như thế nào. Qua hàng thế kỷ, rất nhiều những thiền giả đã sử dụng
tất cả tri thức thuận tiện đối với họ và đã đưa đến những gì được gọi là
"những cuộc thí nghiệm'' trong thế giới này và đã đạt đến những kết quả
đáng chú ý và đôi khi là phi thường. Một cuộc thảo luận sâu hơn cùng với sự
nghiên cứu được tiến hành với cả những nhà khoa học và học giả Phật Giáo có thể
rất lợi ích trên trình độ học thuật trong việc hổ trợ cho tri thức của nhân loại.
Trên một trình độ khác, nếu nhân loại tồn tại, thì hạnh
phúc và sự hòa bình nội tại là thiết yếu. Bằng khác đi, sự sống của con
cháu chúng ta và người khác có hiểm họa bất hạnh, thất vọng, và ngắn ngủi. Thảm
họa 11 tháng Chín 2001, cho thấy rằng kỷ thuật hiện đại và sự thông minh của
con người, được hướng dẫn bằng thù hận, có thể đưa đến những sự tàn phá khủng
khiếp. Dĩ nhiên, sự tiến bộ vật chất đóng góp cho hạnh phúc đến một mức độ rộng
rãi nào đó và cho sự thoải mái của đời sống. Nhưng như vậy không đủ. Để đạt đến
một trình độ sâu xa hơn của hạnh phúc, thì chúng ta không thể lãng quên sự phát
triển nội tại của chúng ta. Tôi nghĩ rằng cảm nhận của chúng ta về những
giá trị con người căn bản phải được theo đuổi nhịp nhàng cùng tốc độ như sự gia
tăng hiện tại của những năng lực vật chất.
Đó là tại sao tôi đã động viên những học giả thẩm tra
những thiền giả Tây Tạng tiến bộ nhằm để quyết định vấn đề sự thực tập tâm linh
của họ có thể lợi ích hơn cho những người khác ở bên ngoài phạm vi tôn giáo như
thế nào. Vì thật quan trọng để có một sự thấu hiểu tốt hơn về thế giới của tâm
thức, về sự tỉnh giác, và về những cảm xúc.
Những cuộc thí nghiệm đã được tiến hành chứng tỏ rằng
những thiền giả có thể đạt đến một thể trạng của hòa bình nội tại và duy trì
nó, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn. Những kết quả chứng tỏ rằng họ hạnh
phúc hơn, ít lệ thuộc với những cảm xúc tàn phá, và dễ tiếp thu những cảm giác
của người khác hơn. Những phương pháp quán chiếu không chỉ hữu dụng mà cũng
không đắc tiền! Quý vị không phải mua bất cứ thứ gì hay làm bất cứ điều gì
trong một nhà máy. Quý vị không cần phải uống thuốc hay chích thuốc.
Câu hỏi là làm sao để chia sẻ những kết quả này với
những người không phải Phật tử. Vì vấn đề là sự khám phá này không bị giới hạn
cho Phật Giáo hay với bất cứ tôn giáo nào khác, nhưng là sự hiểu biết tốt hơn
năng lực của tâm thức con người. Nhưng phương pháp tâm linh là sự tùy ý sử dụng
của chúng ta, nhưng chúng ta phải làm sao cho chúng có thể tới được đại đa số
những người không thích thú với tâm linh. Đây là cách duy nhất mà chúng sẽ có
tác động hiệu quả lớn nhất.
Một sự khởi đầu như vậy là quan trọng vì chỉ riêng
khoa học và kỷ thuật mà thôi thì không thể giải quyết tất cả những vấn nạn của
chúng ta. Chúng ta phải phối hợp sự tiến bộ vật chất với sự phát triển nội tại
của những giá trị nhân bản của từ ái, bi mẫn, bao dung, tha thứ, tiết độ, và kỷ
luật tự giác.
***
Trong sự tiếp cận với thảm kịch 11 tháng Chín 2001,
như một vấn nạn "tâm linh", Đức Đạt Lai Lạt Ma vạch ra việc vắng mặt
của quy tắc đạo đức trong nghiên cứu khoa học. Như kết quả của sự vắng mặt này,
những hành động quan trọng được thai nghén bởi tâm thức con người chống lại con
người, cho dù trong vụ tấn công khủng bố tòa tháp đôi của Trung Tâm Thương Mại
Thế Giới, trong những thí nghiệm di truyền không kiểm soát được, hay
trong sự suy thoái nhanh chóng môi trường vốn đe dọa những thế hệ tương lai.
Như một tu sĩ Phật Giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố rằng cũng trong câu hỏi
này, tâm linh, sự thấu hiểu như một sự trở lại những giá trị nhân bản cần yếu,
là chìa khóa cho sự sống còn của chúng ta.
Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, January 26, 2016
[1] Carl Friedrich Freiherr von
Weizsäcker (June 28, 1912 – April 28, 2007) là một nhà vật lý và
triết gia Đức.
[3] Robert Burr "Bob" Livingston (October
9, 1918 – April 26, 2002) là một nhà vật lý học, thần kinh học Hoa Kỳ.
[4] Francisco Javier Varela García (September 7,
1946 – May 28, 2001) là một nhà sinh học, triết học, và thần kinh học người Chi
Lê.
No comments:
Post a Comment