Posted on April 4, 2015 by editor — 0
Comments
Truyện ngắn Em tôi – nguồn ở Tạp
chí Tân Văn, Số 3, tháng 9, 2007, trang 116-122 – được DCVOnline biên tập, minh
hoạ và đăng lại từ lúc 12:00pm (EST) ngày 8 tháng 10, 2007. Đến 8:00pm (EST)
ngày 11 tháng 10, 2007 đã có hơn 6000 lượt đọc và hơn 180 ý kiến của bạn đọc.
Sáng ngày 11 tháng 10, 2007, tác giả của truyện ngắn
Em tôi – không phải là tác giả của Dấu binh lửa (1969), Dọc Ðường Số Một,
Ải trần gian (1970), Dựa Lưng Nỗi Chết (1971), Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) hay Tù Binh
& Hòa Bình (1974) – đã liên lạc, và trao đổi với DCVOnline.
DCVOnline xin trân trọng tạ lỗi với ông Phan Nhật
Nam, và xin lỗi tác giả truyện ngắn Em tôi, cũng như tất cả bạn đọc.
Sau đây, xin mời bạn đọc theo dõi trao đổi giữa tác
giả truyện ngắn Em tôi (TgEt) với DCVOnline.
----------------------
DCVOnline: Thưa ông, lý do nào khiến ông đã liên lạc với DCVOnline?
TgEt: Truyện ngắn “Em tôi” đăng tải trên Đàn Chim Việt mấy hôm nay và đã
trở thành một đề tài có khá nhiều tranh luận.
Tôi nhận thấy một vài ý kiến bạn đọc – chỉ dựa trên
một “truyện” ngắn – bàn loạn về những chi tiết về đời tư của một nhà văn có thật
và còn sống một cách rất… “chủ quan”. Tuy thế, đại đa số độc giả đọc “Em tôi”
đã xúc động và đều muốn chia sẻ niềm đau cùng… nhân vật Phan Nhật Nam trong câu
truyện.
Em tôi là một bài tôi đã viết từ khá lâu. Cũng nhân
cơ hội này, tôi muốn trao đổi với bạn đọc DCVOnline.
DCVOnline: Tại sao ông đã viết Em tôi và đã viết truyện ngắn này từ lúc
nào?
TgEt: Khi ngồi viết truyện ngắn “Em tôi”, cách đây gần 8 năm,
tôi không hề có ý nghĩ xa xôi hay biết trước sẽ có… “sự cố” như hôm nay.
Ngày ấy, đọc bài thơ “Bé” trong tập thơ “Đêm tận thất
thanh” của Phan Nhật Nam ở một website trên mạng, tôi đã không cầm được xúc động.
Ngay sau đó, ngồi xuống, tôi viết liền một mạch truyện ngắn “Em tôi”.
Mặc dầu có nhiều đoạn vừa viết vừa khóc, nhưng tôi
đã viết Em tôi trong thời gian rất ngắn – nhanh lắm. Và sau đó tôi đã post
trong diễn đàn của du sinh và nghiên cứu sinh Việt Nam, forum VNSA
(http://lists.topica.com/lists/vnsa/read). Truyện đã được các thành viên VNSA
khen cũng nhiều và, dĩ nhiên, chê cũng không ít.
DCVOnline: Truyện đã viết từ gần 8 năm trước. Sau đó ông có đăng tải ở đâu
khác hay chỉ lưu chuyển giữa bạn bè và ở forum VNSA?
TgEt: Vài tháng sau khi “post” ở forum VNSA, “Em tôi” được đăng trong đặc
san kỷ niệm 30 năm khóa 22 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, “Ra khơi 1971–2001”. Một
anh bạn cùng khóa cũng đã xin đăng lại “Em tôi” trong đặc san
của nhóm ái hữu Tây Ninh của anh ở Úc châu.
DCVOnline: Thưa tác giả, đấy là chuyện của gần 8 năm về trước. Từ lúc nào bạn
đọc khắp nơi mới biết đến “Em tôi”?
TgEt: Đến cả năm sau thì “Em tôi” trở thành con của thiên hạ khi một
thành viên trong VNSA đem “Em tôi” tung lên mạng lưới toàn cầu.
Tôi không biết từ lúc nào thì “Em tôi” của forumor
Lang Le trở thành “Em tôi” của tác giả Lặng Lẽ, và thậm chí sau này trở thành
“Em tôi” của Phan Nhật Nam.
DCVOnline: Thưa tác giả, trước những ngộ nhận (dễ xảy ra) như thế vì đà
thông tin “không thắng kịp” của internet, ông đã có phản ứng ra sao?
TgEt: Oh, tôi thật sự không cảm thấy phiền hà gì cả nhưng lại rất ái ngại
là việc nhầm lẫn này có thể làm phiền lòng anh Phan Nhật Nam. Vì thế, qua anh
Trần Trung Đạo, tôi đã chuyển một bản“Em tôi” đến nhà văn Phan Nhật
Nam để “kính tường”.
Anh Phan Nhật Nam đã không hề phàn nàn về những rắc
rối lộn xộn, ngộ nhận rất “internet” này mà còn thân ái gửi tặng tôi tập thơ
“Đêm tận thất thanh” trong đó có bài thơ “Bé” của anh.
DCVOnline: Thưa ông, hôm nay, trên DCVOnline, ông có điều gì muốn gởi đến bạn
đọc?
TgEt: Tôi xin thưa, “Em tôi” lần này đến với bạn đọc trong và ngoài nước
trên DCVOnline, ghi tác giả là Phan Nhật Nam, đã khiến nhiều người nghĩ đây
đúng là một “tự sự” của anh (PNN).
“Em tôi”, cùng lúc làm nhiều
người xúc động, cũng lại là nguyên cớ để một vài một vài bạn đọc trên diễn đàn
góp ý kiến khá chủ quan và xúc phạm đến đời tư cũng như thân nhân của nhân vật
(có thật) trong truyện.
Một lần nữa, tôi xin lỗi nhà văn Phan Nhật Nam vì
“tai nạn” này.
Thật sự, có những hư cấu trong truyện ngắn “Em tôi”.
Tuy thế, những hư cấu này quá nhỏ trong cái tổng thể rất thực và rất đau thương
của đất nước Việt nam sau ngày… “giải phóng” và cho đến cả bây giờ.
DCVOnline: Xin thành thật cảm ơn tác giả đã không những đã không trách cứ
sai phạm của DCVOnline và còn cho bạn đọc biết thêm nhiều chi tiết lý thú về
tác phẩm, tác giả, hoàn cảnh sáng tác và những sự việc chung quanh.
TgEt: Cảm ơn Đàn Chim Việt đã cho tôi cơ hội được làm quen với khối bạn đọc
đông đảo trong và ngoài nước.
DCVOnline: Xin cảm ơn và tạm biệt tác giả. Chúng tôi xin được đính chính:
truyện ngắn “Em tôi” đã đăng từ 08/10/2007 là tác phẩm của tác giả Lang Le.
Lang Le, tác giả “Em tôi”. Nguồn: LangLe
© 2007-2015 DCVOnline
*
Em tôi
Lang
Le
(Viết dựa theo cuộc đời và bài thơ “Bé” trong
tập thơ “Đêm tận thất thanh” của Phan Nhật Nam.)
Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa
con thơ lên đường tập kết.
Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm,
tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt
nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc
nhất trong gia đình, đã biết ẩm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em
khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi
và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về; ba mẹ con ngồi ăn
cơm bên ngọn đèn dầu, tôi và em hỏi han, an ủi mẹ… Mẹ kể cho chúng tôi nghe
chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn; tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy
của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.
Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ
có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ;
sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương; buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng
tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy
ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn.
Chợ Cồn Đà Nẵng. Nguồn: OntheNet
Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo,
tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung
quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi Tôi là học trò lớn
nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với
mẹ lên xin thầy Hiệu trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi
cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đỗ được bằng tiểu học năm đó.
Vào lớp đệ Thất trường Trần Quốc Tuấn; tôi tiếp tục
học ngày, học đêm; năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng Trung học. Ðến
niên học đệ Tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ; tôi hân hoan nhập bầy chung với
đám bạn ngày xưa. Ðây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm
quần áo; thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng
bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con
gái trường nữ; thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc.
Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học
trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ bé thua tôi vài tuổi.
Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn
nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi.
Hết năm đệ Tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất Tôi
đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của
mình; tôi biết mẹ buôn bán tảo tần; tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh
hoài; mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng
lẽ mang đôi quang gánh lên vai; những tối ngồi trâm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn
anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ
và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như
cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn
mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn
hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở…
Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con
gái, đã bắt đầu bước vào “tuổi ngọc”; nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết
mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm
tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi
nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi.
Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi “quyền huynh thế phụ”. Nhiều lúc nhìn mẹ,
nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi.
Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học
Ðại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Ðà Nẵng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò
về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục công việc
kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm được, tôi phụ mẹ một ít nuôi em.
Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ
bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu
cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê; sáng hôm sau em
nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.
Lật đật trở vào Ðà Nẵng bằng chuyến xe đò chót. Trời
tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn
phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn
em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Ðứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động,
và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khóe mắt vẫn còn long lanh giọt
lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt.
Ðánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận
ra tôi, em nhào tới ôm chầm và òa lên khóc; em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào
đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại.
Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt
một tĩnh mach ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y
tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa…
Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ; em mệt mỏi,
nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ
mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm
không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi
tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc… nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra; một
tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi
để mặc cho hai dòng nước mắt chảy nhạt nhòa trên má.
Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh
lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay
mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em hôn lên trán mẹ
giã từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình
miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi… Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ; nước
mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẫm cả vạt áo me bạc màu. Những tiếng kêu nghẹn
ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim; tôi ngồi bất động nhìn mẹ,
nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi.
Em mới mười ba tuổi…
Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nữa.
Nhưng em thì phải trở lại trường.
Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng
của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi;
Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi, cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học
với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều. Số
tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn
đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa
với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời.
Tôi vào trường Võ Bị Ðà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh
viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi
tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em
hứa là không bao giờ dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi
năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi
thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng.
Em lớn lên và ngày càng giống me. Cũng khuôn mặt và
cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít
nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng
may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khóa của tôi, em và Hân cùng lên tham dự;
lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư phạm Qui Nhơn; hai năm nửa em sẽ trở thành
cô giáo; tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn
thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai
con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người.
Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng
chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy
mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của
mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai,
như áo quần, son phấn… Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy
năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhỡ
có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau? Em không nói
thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ…
Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây
giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị
xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi
xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng. Em viết thư cho tôi
và khoe có quen với Tuấn, một sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn
hiền lành, ít nói. Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già. Chiến tranh
ngày thêm khốc liệt; đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới
được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em,
không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lễ nằm bệnh viện và ở hậu cứ
dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những
trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những “kỳ
tích” của bạn tôi, của Mễ, của Lô…
Cô giáo và học trò tiểu học. Nguồn: OntheNet
Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày
phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng
bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ
được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm. Thoạt nhìn, tôi
đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt
tuần lễ ở Phan Rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn; mỗi ngày Tuấn tới
chở tôi đi ăn sáng, trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba
cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với
tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những
hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim củ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể
lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối, tôi thấy mắt Tuấn long
lanh…
Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Sài Gòn,
lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm
khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình mặc
dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư. Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép
được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Ðọc thư
Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên
đường tình ái; mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho
em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả
hai đứa cùng nghèo. Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới; nhà gái ngoài tôi
còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy cô giáo và rất
đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn
bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em xúng xính trong bộ đồ cưới, tươi cười đứng bên
cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám cưới của em. Tôi theo đơn vị
lội thêm hai năm nửa ở vùng giới tuyến, thì “tai nạn” xảy ra. Trong một lúc
nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá; tôi không giữ được lời
và đã xúc phạm đến ông, kết quả là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi
binh chủng nhảy dù.
Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục
Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng, những bút ký chiến trường về
Tết Mậu Thân, Bình Long An Lộc… đã làm vinh danh binh chủng cũ của tôi. Tôi được
giải thưởng văn học với bút ký “Mùa hè đỏ lửa”. Tiền thưởng và tiền bán sách
tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô
Phan Rang, gần trường em dạy.
Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà
bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rảnh rỗi tôi lại ra Phan Rang ở chơi với em, với
cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính; hít vào phổi mùi thơm của trẻ
thơ mà thấy lòng mình dịu lại; những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười
lanh lảnh giòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy
cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi
ao ước mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này.
Biến cố tháng 4/ 75 tới như một định mệnh oan nghiệt,
cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy
con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ…
Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã quá già,
làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận
anh. Tôi quay quắt như như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn
mẹ hôm nào mà lòng đau như xé; con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù
tội thì làm sao lo được cho em…
Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và
Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em
có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở
trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu, đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn
nhưng vô hiệu. Tù nhân đông quá…
Một lớp cải tạo ở Tây Ninh. Nguồn: Marc Riboud
Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia
đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em. Thư em đến tay tôi vào giữa
năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt
tôi cay nồng, nhạt nhòa. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có
thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già; em vẫn
đi dạy; hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội; hai cháu lớn theo mẹ vào trường; em cho
hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9
năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.
Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu
năm 76 có tìm đến gặp em; làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết; nhưng
hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới
tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được; bố xoa đầu đám
cháu ngoại đang trố mắt nhìn người đàn ông lạ; bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi
lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào; bố lắc
đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc; ngoài ấy bố có thêm
hai trai và hai gái. Ðứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi.
Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam.
Bố ở chơi một ngày rồi bố trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái
radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm anh trong
trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng
không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy. Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng
như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mũi ra sao, hai mươi mấy
năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.
Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến
thăm tôi.
Ðứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một
người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự
khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy trưởng trại tiết lộ về địa vị
không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một
câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ.
Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi bằng
anh, bố kể là đã gặp em ở Phan Rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc
đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của me. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi
yên nghe bố nói, sau cùng, bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là
đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được
khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dửng dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại
lán mình. Ðó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc
cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có
cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được. Bây giờ
tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn
ngủi ở cuối thư.
Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố
trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.
Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm
được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho
hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con
thơ; em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong
nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở
nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu; mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút
cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu
ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo
này mất ngủ, sức khỏe yếu lắm, em sợ nhỡ có mệnh hệ nào…
Tôi thẫn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ
lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ
già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy; bảy cây thập giá đời
đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi, khuyên
em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì
Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết
thêm cho em hai ba lá thư nữa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng
như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của
mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại
đang có gì ăn?
Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi
nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi
kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại
bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội
nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống
lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô
giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Người chồng,
trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung
úy Trần Nguyên Tuấn.
Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung
trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái,
bên cạnh tôi tiếng người nói lao xao. Tôi không nghe gì hết; tai tôi lùng bùng;
mắt tôi mờ đi; tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu; bốn đứa
cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ; cháu
lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê; hai đứa kia, Hoàng
và Châu ngơ ngác đứng nhìn.
Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân
mình lạnh buốt. Tôi tê dại; tôi hóa đá; tôi không còn cảm xúc; tôi muốn hét lên
cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi
thấy bóng em nhập nhòa, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi… Mũi súng
AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng
dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi
không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi
bước đi như kẻ mộng du…
Núi rừng Yên Bái… tôi thấy bóng em nhập nhòa, chập chờn. Nguồn:
panoramio.com
*
Bé
Năm em tôi lên ba
Ðã chịu đời xa bố
Mẹ tất tả thân mòn
Nuôi con bao vất vả
Ðời thiếu nữ lớn lên
Ðắng cay thêm tủi hổ
Áo vá bạc vai gầy
Tuổi thơ sôi cuồng nộ.
Mẹ mất năm mười-ba
Thảm thiết sao kể xiết
Cố nuôi em từng ngày
Khốn khó dài biền biệt.
Bạn học những tỵ hiềm
Thầy, cô nặng trì siết
Em vây chặt buồn phiền
Tuổi học trò thua thiệt
……
Tôi đi làm lính chiến
Trôi nổi chốn trận tiền
Em một mình côi cút
Ðâu được ngày đoàn viên.
Mong em sau lớn lên
Tình duyên nên mãn nguyện
Cầu em đời bình yên
Quên xóa ngày uất nghẹn.
Nào đâu buổi sụp vỡ
Cảnh nước mất tan nhà
Lâm thân sơ, thất sở
Vây quanh khốn mù sa.
Long Thành, chồng tập trung
Anh ngục tù lấm nhục
Trên quê hương lưu đầy
Rừng rực lửa địa ngục.
Bốn con thơ khốn cùng
Sức người căng vượt sống
Tư trang bán sạch dần
Cây rừng khô lá rụng.
……
Em tôi. Nguồn: OntheNet
Tôi đi lên miền Bắc
Thân kiệt cùng thậm ngặt
Nhớ thương em dãi dầu
Nơi quê nhà bằn bặt
Rừng núi trời vào thu
Tù leo đồi đốn nứa
Bên đường đèo nghỉ đỡ
Nghe chuyện buồn thương tâm
“…Người chồng đi tập trung
Vợ ở nhà chết thảm
Bốn con nhỏ khốn cùng
Quay quắt bên thây cứng!!”
Những tưởng nghe nhầm tai
Giật mình gào hỏi lại
Ôi xiết bao kinh hãi
Ðúng tên chồng em gái?!
Chuyện những Ðồi Hoa Sim
Nay một lần lập lại
Không chết người ngục tù
Một mình em oan trái!
Tôi bật khóc trên đồi
Nhìn khoảng không vần vũ
Có còn không.. Ðất, trời!!
Mây mang mang kéo lũ
Rừng chập chùng lá đổ
Sương dầy vây khói xanh
Thật hay không đấy hở?!
Tạo Hóa nghiệt cùng đành!
Cháu tôi ai nuôi đây?
Bé nhất chưa biết nói
Chịu sao nổi đọa đày
Giữa trùng vây khổ đói
……
Năm năm ngày giỗ em
Cấm phòng ngồi gục mặt
Nhói đau trũng ngực nặng
Em chết thật sao Khanh?
Phan
Nhật Nam
18/03/1983
Ngục tối Trại Lam Sơn, Thanh Hóa.
Không biết ngày chết. Nhớ ngày em tôi đã có trong đời
.
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
DCVOnline hiệu đính và minh họa.
No comments:
Post a Comment