Hoà
Vân/Vũ Quang Việt
Cập
nhật lần cuối 10/04/2015
Trước
chuyến thăm Hoa Kỳ, dự kiến sẽ thực hiện vào tháng năm năm nay, tổng bí thư
ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng đã nhận lời mời của người đồng sự ĐCSTQ Tập Cận Bình, đi
thăm Trung Quốc từ 7 đến 10.4.2015. Cùng đi với ông Trọng có 4 uỷ viên bộ chính
trị gồm Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh; Phó Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Thị Kim Ngân; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh; Bộ trưởng Bộ
Công an Trần Đại Quang và ba uỷ viên khác trong ban chấp hành trung ương đảng.
Chuyến thăm được thực hiện gần một năm sau sự kiện Trung Quốc kéo giàn khoan
HD981 vào vùng biển Việt Nam khiến quan hệ giữa hai nước bị rạn nứt nghiêm trọng.
Hai
bên đã ký một Thông cáo chung (9 điểm) tại Bắc Kinh ngày 8.4 ghi lại
những thoả thuận hợp tác. Bài này chỉ bàn về hai chủ đề chính trong đó.
Về
hợp tác song phương
Dĩ
nhiên, đây là phần chính của các cuộc đàm phán trong chuyến đi, được phản ánh
trong điểm 4/ của Thông cáo chung.
Sau
khi nhắc lại những mong muốn duy trì và phát triển các quan hệ giữa hai đảng
CS, Thông cáo chung đề cập tới phần hợp tác kinh tế như sau (người viết nhấn mạnh
– in nghiêng – một số điểm sẽ trở lại trong bài) :
Thực
hiện tốt "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế -thương mại Việt -
Trung giai đoạn 2012 - 2016", thúc đẩy thực hiện Danh mục các dự án hợp
tác trọng điểm và các thỏa thuận hợp tác kinh tế thương mại mà hai bên đã ký kết.
Thúc đẩy thương mại song phương tăng trưởng ổn định, cân bằng, bền vững; phía
Trung Quốc khuyến khích doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập khẩu các mặt hàng
có sức cạnh tranh của Việt Nam; hai bên tích cực nghiên cứu việc đàm phán, ký kết
Hiệp định sửa đổi về thương mại biên giới Việt - Trung. Sớm bàn bạc và xác định
phương án tổng thể chung về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới; thiết
thực thúc đẩy các dự án kết nối cơ sở hạ tầng. Thúc đẩy hợp tác trong
các ngành nghề nông nghiệp, chế tạo, dịch vụ và các lĩnh vực khoa học công nghệ,
y tế, kiểm nghiệm, kiểm dịch, v.v.
Phía
Trung Quốc ủng hộ doanh nghiệp Trung Quốc sang Việt Nam đầu tư phát triển và sẵn sàng tạo
điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam đến Trung Quốc khai thác mở rộng
thị trường. Phía Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho các doanh
nghiệp Trung Quốc sang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Hai
bên tuyên bố chính thức thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng
và Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ, đồng ý tăng cường điều hành, phối hợp giữa
các nhóm này và Nhóm Công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển,
cùng nhau thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực phát triển toàn diện.
Có
vài điểm có thể nêu ra trong đoạn văn trên:
-
“phía Trung Quốc khuyến khích doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập khẩu
các mặt hàng có sức cạnh tranh của Việt Nam”. Khá trịch thượng ! Các
anh không làm được hàng có chất lượng với giá rẻ thì đừng hòng tôi nhập khẩu. Trịch
thượng vì hiển nhiên không cần thiết phải đưa vào văn bản một câu nói như vậy.
Nhưng ngược lại, nếu các nhà hữu trách Việt Nam biết ngượng mà cố gắng đưa ra
những chính sách khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư sức người, sức của
làm ra những mặt hàng tốt (khi đó, cũng không cần anh bạn “mở rộng nhập khẩu”
đâu, thiên hạ thiếu gì người sẵn sàng mua hàng tốt và rẻ !). Những người làm
trong công nghiệp VN, cả quan chức và doanh nghiệp chắc nên cảm ơn lời nhắc nhở
vô tình này.
-
“chính thức thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng”. Câu
này khá mơ hồ, nếu người ta không đọc tiếp những thông tin được báo chí VN đăng
tải về cuộc hội đàm giữa hai ông tổng. Trong bài Hội đàm cấp cao hai Tổng Bí
thư Việt Nam - Trung Quốc trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, có đoạn viết :
Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Việt Nam hoan nghênh và mong muốn Trung
Quốc tăng mạnh đầu tư vào Việt Nam, nhất là có những dự án đầu tư lớn, công nghệ
hiện đại tiên tiến, tiêu biểu cho trình độ phát triển và công nghệ của Trung Quốc,
ưu tiên trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, chế tạo, công nghiệp phụ trợ;
đồng thời đề nghị Trung Quốc quan tâm chỉ đạo lựa chọn nhà thầu có năng
lực và khả năng tài chính để các dự án đầu tư tại Việt Nam được thực hiện đúng
tiến độ và đảm bảo chất lượng công trình.
Lạ,
việc chọn nhà thầu tốt là trách nhiệm của chủ công trình (đây là những công trình
xây dựng ở VN, cho VN) thì sao lại có yêu cầu chính phủ TQ chọn nhà thầu ?
Nếu nó chọn mà mình không chịu thì sao? Tại sao nhà lãnh đạo cao nhất của một
nước lại hạ mình đặt ra lời xin xỏ đó, và khi đối tác « thương tình »
bảo không nên đưa ra như thế trong bản Tuyên bố chung thì vẫn chỉ đạo các
báo trong nước nói thẳng ra là mình đã đưa ra « yêu cầu » như thế (chắc
là để « lấy điểm » với dân sau khi có rất nhiều bài báo than là nhà
thầu Trung Quốc làm ăn bê bối1). Có phải vì thế mà Nhóm công
tác hợp tác về cơ sở hạ tầng” được thành lập ?
-« Nhóm
Công tác về hợp tác tiền tệ ». Có phải đây là âm mưu nối lại dự
án « đề nghị thanh toán bằng nhân dân tệ tại Việt Nam » mà
quả bóng thăm dò đưa ra hồi đầu năm nay đã mau chóng bị dẹp vì phản ứng của người
Việt ?
- đồng
ý tăng cường điều hành, phối hợp giữa các nhóm này và Nhóm Công tác bàn bạc về
hợp tác cùng phát triển trên biển. Tại sao phải phối hợp hoạt động của
hai nhóm kinh tế (cơ sở hạ tầng và hợp tác tiền tệ) với nhóm hợp tác trên biển ?
Hạ tầng là giàn khoan ? Tiền tệ tiêu trên Biển Đông sẽ là nhân dân tệ ? Người
ta càng có thể nghi ngờ là “Thông cáo chung” không nói hết, khi đọc thông tin
được các nhà báo Nhật của tờ Nikkei Asian Review đưa ra, theo đó, ông Trọng đã
đồng ý “đưa cảng Hải Phòng vào chương trình xây dựng Con đường
Tơ lụa trên biển do Trung Quốc khởi xướng.” (tin được đăng lại trên BBC 8.4.2015). Mối liên quan giữa "ba nhóm công
tác" là đây chăng? Xin xem thêm lời bàn của Vũ Quang Việt ở cuối bài.
Vấn
đề Biển Đông
Ghi
trong điểm 5/ của Thông cáo chung. Trích:
Cùng
kiểm soát tốt bất đồng trên biển, thực hiện đầy đủ có hiệu quả Tuyên bố về ứng
xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(COC) trên cơ sở hiệp thương thống nhất, không có hành động làm phức tạp, mở rộng
tranh chấp; xử lý kịp thời, thỏa đáng vấn đề nảy sinh, duy trì đại cục quan hệ
Việt - Trung và hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Hai
bên nhất trí thúc đẩy hoạt động của Nhóm bàn bạc về hợp tác cùng phát triển
trên biển, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm, vững bước thúc đẩy
đàm phán phân định khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, tích cực thúc đẩy hợp tác
cùng phát triển tại vùng biển này, sớm khởi động khảo sát chung tại vùng biển
ngoài cửa vịnh Bắc Bộ trong năm nay.
Đoạn
nhai lại trên ngược lại với thực tế trước mắt là TQ đang xây pháo
đài trên biển Đông, đã được báo chí thế giới công bố, và báo chí Việt Nam cũng
đã đăng lại2. Những xây dựng đó không phải là “hành động làm phức
tạp, mở rộng tranh chấp” hay sao? Ông Trọng hoàn toàn lờ đi chuyện này, và
lại hứa hẹn và ký thêm với TQ những điều có lợi cho họ trong thông cáo chính thức
giữa hai nước. Không hiểu VN được lợi gì? Biển Đông có phải là ao nhà của Trung
Quốc và Việt Nam cộng lại đâu, còn Philipin, còn Malaysia và các nước ven biển
khác, làm sao chỉ “duy trì đại cục quan hệ Việt – Trung” mà có thể bảo đảm
“hòa bình, ổn định ở Biển Đông”? Nói về Biển Đông mà chỉ nói như một vấn
đề “trên biển Việt Nam – Trung Quốc”, phớt lờ các nước khác thực chất là từ bỏ
những đồng minh có thể, đồng minh tốt nhất của VN, để đơn thân bước vào hang cọp.
Một nhân vật đã lên tới chức Tổng bí thư một đảng chính trị lớn không thể ngu tới
mức không biết điều này. Người ta chỉ có thể kết luận: ông Trọng đặt bút ký vào
một Tuyên bố chung như vậy là cố tình dọn đường cho những bước
thu tóm quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đang tích cực chuẩn bị.
Ông
Trọng sắp đi Mỹ để tăng cường mối quan hệ giữa hai nước, thế là ông "được"
mời sang Bắc Kinh trước. Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại
Trung Quốc (bài trên Bauxite Việt Nam), nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, nguyên Tổng
lãnh sự Việt Nam tại Trung Quốc (bài trên BBC), đều chỉ rõ cái ý đồ của Bắc Kinh sau tấm "thiệp
mời" giờ chót ấy. Ông Trọng và các đồng sự của ông trong Bộ chính trị
ĐCSVN không thể không biết điều đó. Các toan tính ngoại giao bình thường nhất
cho thấy ông vẫn nên đi, vẫn phải đi. Điều đó, trừ khi tiên quyết đã sẵn mối
nghi ngờ với mọi hoạt động của ông, người ta dễ dàng chấp nhận. Cái khó chấp nhận
là ông tới để khấu đầu, khác với các vị quan đi sứ của các thời phong kiến. Liệu
chuyến đi Mỹ đã dự kiến ấy có còn ý nghĩa ?
Hoà
Vân
(tác
giả cảm ơn một vài gợi ý của Vũ Quang Việt)
Chú
thích:
1.
Chẳng hạn như :
-
loạt bài (37 bài !) của báo Đời sống & Pháp luật chung quanh chủ đề
« nhà thầu Trung Quốc » chủ yếu trong ngành năng lượng:
2.
Lấy ví dụ, bài này: Trung Quốc ồ ạt xây đảo nhân tạo ở Trường Sa, thế giới ‘bó
tay’ ? hoặc bài này, mới hơn: Trung Quốc gấp rút xây đảo Vành Khăn.
-------------------
Mấy lời bàn thêm
Vũ
Quang Việt
Không
thể bỏ qua sự liên quan giữa nhóm công tác về cơ sở hạ tầng, nhóm về hợp tác tiền
tệ và sự thúc đẩy của phía TQ được ghi trong thông cáo là “Sớm bàn bạc và
xác định phương án tổng thể chung về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới;
thiết thực thúc đẩy các dự án kết nối cơ sở hạ tầng.”
Không
nói rõ nhưng thật ra nó nằm trong ý đồ xây dựng con đường tơ lụa trên biển mà
biên giới, đường sá miền bắc, cảng Hải Phòng là địa danh nối liền các tỉnh Vân
Nam, Quảng Tây với Biển Đông nhằm phục vụ cho xuất nhập hàng hoá của họ. Điều
này đã được báo Nhật nhắc đến như đã nói trong bài [1] và một nhà nghiên cứu từ
TQ đang làm việc tại Viện Đông Nam Á của Singapore cũng phân tích trong một bài
vừa xuất bản.[2]. Lời hứa trên của Nguyễn Phú Trọng được cụ thể hoá bằng các
nhóm công tác có thể đưa đến tình hình tệ hơn những gì xảy ra ở dự án Bô Xít ở
Tây Nguyên mà Nông Đức Mạnh đã ký và nhiều đời Tổng bí thư ĐCS TQ thúc giục đòi
phía VN giữ lời hứa. Hợp tác nhằm giúp TQ thực hiện con đường tơ lụa trên biển
có lợi gì cho VN? Có thể cho rằng đấy là dịch vụ thông thường mà VN nên cung cấp,
qua đó thu phí và tạo công ăn việc làm. Chuyện rất có thể không đơn giản như vậy,
nhất là TQ là nước luôn luôn muốn dùng sức mạnh với VN. Thử lý giải về khả năng
kiểm soát của VN cuộc làm ăn chung này như thế nào:
1.
Rõ ràng VN không phải là nước độc quyền cung ứng dịch vụ chuyển vận này. Nếu TQ
không hài lòng và muốn tạo áp lực gây rối loạn kinh tế như trước kia họ kêu gọi
thợ đào mỏ than trở về TQ để làm ngừng trệ sản xuất than thì họ có thể chuyển
hàng sang các ngả khác như qua Myamar và Thái để sang châu Âu, châu Phi hay
Trung Đông. Các con đường đó có lẽ tiết kiệm hơn nhiều cho TQ. Đoạn về tàu thủy
thì chắc chắn là ngắn hơn nhiều rồi. Cảng Hải Phòng lại không phải là cảng nước
sâu nên chi phí sẽ cao hơn, và chủ yếu cũng chỉ có thể phục vụ hàng TQ đi tới
các nước phía Bắc và Úc và cùng lắm là Đông Nam Á.
2.
Cũng rõ ràng là hạ tầng miền bắc và Hải Phòng nếu được phát triển dư thừa so với
nhu cầu nội địa cũng chỉ có thể phục vụ TQ. Và để xây dựng hạ tầng này VN phải
dựa vào vốn TQ và do đó phải dùng nhà thầu TQ và mua hàng hoá máy móc của TQ.
Như thế, TQ là nước độc quyền cầu, có nghĩa là nước duy nhất dùng dịch vụ, VN lại
là con nợ, vậy thì cũng nên nghiên cứu xem xét lợi hại điều mà ông Trọng hứa hẹn
với TQ để đừng bị đưa vào thế kẹt. Đây là một vấn đề lớn, chưa nghiên cứu, chưa
có tiếng nói của Chính phủ, chưa bàn ở Quốc hội, thế mà tại sao một ông Tổng Bí
thư lại dành cho mình quyền hứa trên?
No comments:
Post a Comment