Ngô Nhân Dụng
Tuesday,
March 31, 2015 6:59:31 PM
Ông
Lý Quang Diệu, trong một bài phỏng vấn của tờ New York Times năm 2010, đã nói
trước như một di chúc, “Tôi không nói mọi việc mình làm đều đúng, nhưng tôi làm
tất cả vì một mục đích ngay thẳng.”
Những
người chống ông Lý Quang Diệu cũng phải công nhận ông đáng được ca ngợi, với
công xây dựng một Singapore phồn thịnh, sạch sẽ, kỷ luật và đạo đức. Ông cai trị
thành phố hai, ba triệu người này như một ông bố lo lắng, săn sóc các con (dân
chi phụ mẫu). Người ta có thể bất bình về thái độ “cha mẹ” đó, nhưng không thể
phủ nhận các thành quả hiển nhiên. Bí quyết nào đã giúp ông thành công?
Một
bí quyết là ông không tôn thờ một chủ nghĩa nào cả. Ông thực tế, chỉ làm theo
những điều mình hiểu biết và lương tâm của mình, với “mục đích ngay thẳng.”
Lý
Quang Diệu là một người Khách Gia (Hẹ) sinh ở Bằng Tường, thuộc tỉnh Quảng Tây,
bên kia biên giới Việt Hoa; đáng lẽ vùng này thuộc nước Việt Nam, trước khi bị
người Trung Hoa chiếm. Ông được giáo dục trong gia đình theo lối nhà Nho, lớn
lên du học ở Anh. Hai nền giáo dục này ảnh hưởng trên cách ông xây dựng nước
Singapore. Hai truyền thống đó trở thành căn bản lập quốc, vì kinh nghiệm bản
thân của Lý Quang Diệu. Về xã hội, ông muốn giữ gìn một nền đạo lý theo Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín. Về chính trị, theo chế độ đại nghị, tam quyền phân lập với quy tắc
tôn trọng pháp luật của kinh tế thị trường.
Nước
Singapore giầu có như ngày nay vì đã dùng các chính sách kinh tế đúng, theo
kinh nghiệm đã được thử thách và các khám phá khoa học mới; chứ không phải vì
những người cai trị đóng vai “cha mẹ dân.” Làm “cha già dân tộc” mà dốt nát và
cố chấp thì con cái vẫn đói dài. Lý Quang Diệu thừa hưởng một nền hành chánh
đem từ nước Anh qua các thuộc địa, tôn trọng luật pháp và tôn trọng quyền tư hữu,
tự do kinh doanh. Đó là những yếu tố giúp kinh tế Singapore cũng như Hồng Kông
phồn thịnh. Các nước Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, cũng giữ được truyền thống
văn hóa Khổng giáo, theo các chính sách kinh tế đứng đắn, tất cả đều thành
công, tiến bước trên đường dân chủ hóa. Ngoài ra còn phải kể đến ý chí đoàn kết
của mọi người dân Singapore khi họ bị đuổi khỏi Liên Bang Mã Lai Á.
Ngược
lại, những nước trong vùng hiện nay chịu cảnh nghèo nàn chỉ vì trong cùng thời
gian đó đã áp dụng các chính sách kinh tế sai lầm. Có những nước sai lầm vì người
cầm quyền độc tài, dốt nát và tham lam, giành độc quyền kinh tế cho gia đình,
cho phe đảng, như Philippines, Indonesia. Đó là những quốc gia mới lập sau Đại
Chiến Thứ Hai, với dân số đông gấp trăm lần Singapore, thêm tình trạng chia rẽ
do thành phần phức tạp, ý thức dân tộc đang thành hình chưa đủ vững chãi. Lý do
thất bại của hai quốc gia này là họ sai lầm, kiềm hãm khả năng kinh doanh của
người dân bị vì xã hội thiếu tự do.
Sai
lầm của chế độ Cộng Sản tại Á Châu bản chất khác, cho nên cũng nặng nề hơn. Tại
Trung Quốc và Việt Nam, những người Cộng Sản cướp được chính quyền đều tin theo
một chủ nghĩa không tưởng. Trung Cộng và Việt Cộng đều bị trói chặt suốt mấy thế
hệ trong một xã hội khép kín, một nếp sống đóng khuôn bằng những tín điều chủ
nghĩa Cộng Sản. Các chế độ độc tài ở Nam Hàn, Đài Loan, Philippines, Indonesia
vẫn để mở cánh cửa cho việc cải thiện cả hệ thống kinh tế lẫn chính trị. Tại Miến
Điện (Myanmar) nhóm quân phiệt cai trị theo chủ nghĩa xã hội riêng của họ cũng
mắc cùng một chướng ngại như vậy.
Chướng
ngại lớn nhất khiến kinh tế các nước Cộng Sản không tiến được là họ thờ phụng
các giáo điều một chủ nghĩa. Giống như tín đồ say sưa theo một tôn giáo mới, họ
bất chấp thực tế. Họ lại tự kiêu về tín ngưỡng mới của mình, coi khinh mọi truyền
thống trí thức cũng như đạo lý mà tổ tiên đã xây dựng hàng ngàn năm để lại.
Mê
tín vào chủ nghĩa, cho nên họ từ chối không dùng lý trí phê phán khi thực tế diễn
ra khác hẳn với giáo điều và lý thuyết. Thái độ cuồng tín đó diễn tả qua khẩu
hiệu: “Hồng hơn Chuyên.” Nghĩa là người tin tưởng các giáo điều mới có quyền
quyết định, bất chấp ý kiến của những người có khả năng chuyên môn, trong tất cả
mọi việc. Mao Trạch Đông, Lê Duẩn và Pol Pot đuổi các sinh viên, học sinh, nhà
giáo và giới trí thức, chuyên môn tới những “vùng kinh tế mới” hoặc nhốt họ vào
các trại tập trung cải tạo, mà không cần biết hậu quả trên kinh tế cả nước như
thế nào. Tất cả những người đeo mắt kiếng đều khả nghi, vì họ có vẻ muốn sử dụng
lý trí, trong khi đảng chỉ cần người nhắm mắt tin tưởng! Các lãnh tụ Cộng Sản
không chịu thấy rằng mỗi vấn đề đều phải có giải pháp chuyên môn, nhờ học hỏi
khoa học kỹ thuật. Họ không chịu biết rằng những tiến bộ kỹ thuật không tùy thuộc
vào niềm tin tôn giáo hay chủ nghĩa.
Thất
bại kinh tế của các chế độ Cộng Sản đều bắt đầu từ cái óc cuồng tín này. Mê tín
cho nên đưa tới những chính sách kinh tế sai lầm. Nam Hàn, Đài Loan,
Philippines, Indonesia cũng qua những giai đoạn chậm tiến vì sai lầm, nhưng giới
lãnh đạo các nước này không mê tín một chủ nghĩa, một lý thuyết nào đến nỗi xóa
bỏ cả lý trí, bất chấp các kỹ thuật chuyên môn.
Trong
Đảng Cộng Sản Việt Nam họ thường giải thích thất bại kinh tế của cả chế độ trước
đây là do tinh thần “Duy Ý Chí.” Nhưng Duy Ý Chí nghĩa là gì? Là tin rằng nếu
mình quyết tâm làm cái gì cho bằng được, thì thế nào cũng thành công. Nghĩa là
bất chấp các kỹ thuật chuyên môn. Việt Cộng cũng thường tự mỉa mai chế độ kinh
tế của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn là “Bao Cấp.” Mà Bao Cấp nghĩa là gì? Nghĩa là chủ
trương nhóm người lãnh đạo quyết định tất cả, bên dưới tất cả sẽ được nuôi ăn,
được phân phát quần áo, nhà cửa, chén bát, kẹo bánh. Bên dưới chỉ cần hoàn toàn
tin tưởng “ở trên,” mọi chuyện sẽ tốt đẹp.
Từ
khi các Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam “đổi mới,” nghĩa là học làm kinh tế
theo lối tư bản, thì họ còn mắc bệnh cuồng tín nữa hay không? Chắc chắn khi chịu
mở mắt ra thì bệnh nhẹ hơn. Nhưng bệnh Duy Ý Chí và Bao Cấp đã thấm vào xương,
vào tủy, đã đẫm trong mạch máu làm cho đầu óc mụ mẫm, thì còn lâu mới tẩy rửa
được.
Cho
nên mới có những hiện tượng chặt hàng ngàn gốc cây xanh trong thành phố Hà Nội.
Mấy người cầm đầu thành phố muốn chặt là họ chặt, chẳng thèm hỏi ý kiến người
dân, mà cũng không cần hỏi giới chuyên môn về môi trường sống, về thiết kế đô
thị.
Nay
lại tới hiện tượng sắp xây Tháp Truyền Hình sắp dựng lên tại Hà Nội. Ông Trần
Bình Minh, ủy viên Trung Ương Đảng, tổng giám đốc đài truyền hình Việt Nam cho
biết, “Phương án được thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo gợi ý là phải lập kỷ lục
thế giới về chiều cao.” Sau khi so sánh: Tháp Eifel/ Pháp cao 325m, tháp Thượng
Hải 468m, tháp Ostankino/Moscow 540m, tháp Canton - Quảng Châu 600m, tháp Tokyo
634m còn tháp TH Hà Nội sẽ cao 636 mét, nhà báo Bùi Tín đặt câu hỏi, “Tháp truyền
hình cao ngất ngưởng, mà dân trí thấp, nền giáo dục thấp lèo tèo, nhiều nơi các
em đi học không có cầu phải níu theo dây cáp để qua sông có thể chết đuối, nền
y tế xã hội bệ rạc, tham nhũng loại cao không đâu bằng, nền công nghiệp chưa
làm ra nổi một con ốc thật đúng chất lượng... Tiền của đâu có thừa thãi gì mà
chơi ngông vậy?!” Cây Tháp Truyền Hình này sẽ là biểu tượng cho đầu óc Duy Ý
Chí, nhưng đối với các quan chức phụ trách “thi công” và các nhà thầu thì đây lại
là một dịp cho họ tha hồ “bao cấp” lẫn nhau!
Rồi
tới hiện tượng lấp sông Đồng Nai. Nhà báo Lê Diễn Đức, trên nhật báo Người Việt,
cũng kêu lên, “Nhà chức trách không thèm lấy ý kiến của người dân mà cũng không
hề hỏi ý kiến các chuyên gia trong ngành.” Lê Diễn Đức còn dẫn lời ông Bùi Cách
Tuyến, một quan chức nói, “Chúng tôi không được tham vấn. Với tư cách là phó chủ
tịch Ủy Ban Bảo Vệ Lưu Vực sông Đồng Nai, tôi không biết. Và với tư cách là thứ
trưởng Bộ Tài Nguyên Môi Trường, tôi cũng không hay về dự án này.” Một nhà
chuyên môn là ông Lê Mạnh Hùng, đứng thứ nhì trong Tổng Cục Thủy Lợi. Ông Hùng
nói, “... Tôi không đồng ý với những lập luận của Đồng Nai khi cho rằng đoạn
sông này rộng thì lấp đi một ít cũng chẳng sao. Nếu suy nghĩ vậy thì chúng ta
đâu cần phải bỏ thời gian học thủy lợi làm gì!”
Trong
truyền thống các Đảng Cộng Sản, không ai cần phải bỏ thời gian học “bất cứ
ngành chuyên môn nào” làm cái gì cả! Vì học chuyên môn giỏi đến mấy cũng không
bằng chạy vạy, luồn cúi kiếm lấy một cái “bằng đảng viên!”
Ông
Lý Quang Diệu không bị một chủ nghĩa nào làm đầu óc mụ mẫm cho nên đã sử dụng
các chính sách kinh tế đứng đắn, vì tin tưởng các nhà chuyên môn. Ông Lý cư xử
với dân của ông như một ông bố già, nhưng chế độ của ông trọng nền nếp đạo lý cổ
truyền, trọng luật pháp, chắc chắn không chuyên chế. Các ông Tưởng Kinh Quốc ở
Đài Loan, ông Roh Tae-Woo tại Nam Hàn cũng không ai là tín đồ một chủ nghĩa cực
đoan nào, cho nên họ chấp nhận thay đổi thể chế chính trị, đặt nền móng cho chế
độ dân chủ tự do.
Muốn
học theo Lý Quang Diệu, phải dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản.
No comments:
Post a Comment