Cuộc
Cách Mạng Ruộng Đất 1954 ở làng tôi (Kỳ 1)
Huy Vũ – Saigon Nhỏ
31
tháng 8, 2024
https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/cuoc-cach-mang-ruong-dat-1954-o-lang-toi-ky-1/
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/08/Dau-to-dia-chu-ban-dem_hinhanhlichsu.org-1.jpg
Một cuộc
đấu tố địa chủ. (Hình: hinhanhlichsu.org)
Nửa
năm cuối năm 1954, một đội cán bộ Phát Động Quần Chúng Đấu Tranh Chống Địa Chủ
được ông Hồ và đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) phối trí đến
làng tôi, làng Bản Nguyên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Vùng
quê tôi nằm trong vùng kiểm soát của ông Hồ và các đồng chí của ông ngay sau
ngày Tổng Khời Nghĩa, 19/08/1945. Sau ngày Toàn Quốc Kháng Chiến, 19/12/1946,
vì nằm đối diện với đồn Hưng Hóa của quân đội Pháp ở phía hữu ngạn sông Hồng,
nên làng tôi đã trở thành tiền tuyến trong cuộc chiến tranh giữa Việt Minh và đội
quân viễn chinh Pháp. Sau hiệp định Geneva 1954, quân Pháp rút khỏi vùng bên
kia sông Hồng, dân làng tôi, cũng như các làng khác trong vùng, bắt đầu được sống
lại những ngày thanh bình như thuở xa xưa, và không còn bận tâm đến tên rơi đạn
lạc nữa. Gia đình tôi đã trở về mái nhà xưa, nằm giữa một khu vườn khá rộng ở
trong làng.
Được
trở về mái nhà xưa, gia đình tôi thật vô cùng vui mừng, dù rất đau lòng trước cảnh
hoang phế bởi chiến tranh, song chúng tôi cũng bắt tay ngay vào việc sửa sang,
lấp bằng những hố sâu do đạn súng cối hay đại bác của quân đội Pháp tạo ra,
phát quang những bụi rậm, sửa chữa những chỗ hư hại trên mái nhà. Chỉ vài tháng
sau, cảnh hoang dại và trống vắng đã biến đi, bụi chuối, bờ tre đã lấy lại sức
sống, những luống khoai xanh tươi đã mọc lên. Những tưởng chiến tranh đã chấm dứt,
cuộc sống gia đình tôi cũng như dân làng tôi sẽ sung túc trở lại. Song nào ngờ,
nỗi vui mừng được sống trong hoà bình của gia đình tôi, cũng như dân làng tôi
chỉ kéo dài được một thời gian ngắn, ông Hồ và đảng CSVN đã vâng lời quan thầy
Liên Xô và Trung Cộng đẩy dân làng tôi vào một cuộc Cách Mạng Ruộng Đất (CMRĐ)
và được gọi với một cái tên mới, thoạt nghe đã làm nhiều người khiếp đảm, cuộc
“Cách Mạng Trời Long Đất Lở.”
Thật
ra cuộc cách mạng này không có gì là mới lạ cả, mà chỉ là phó bản của chương
trình “Thổ Cải” đã được Mao Trạch Đông và đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) thực
thi ở nước Tàu, từ năm 1946 tới năm 1953 và đã lấy đi trên dưới mười triệu sinh
mạng của người dân nước này. Vì ông Hồ và đảng CSVN chỉ là tay sai của Quốc Tế
Cộng Sản (QTCS) do Liên Xô lãnh đạo và vị lãnh tụ cao cấp nhất của tổ chức này
là Joseph Stalin, nên nhất cử nhất động của ông Hồ và đảng CSVN thực thi ở Việt
Nam phải được sự chấp thuận trước của Stalin. Do đó, trước khi thực thi chương
trình CCRĐ ở Việt Nam, ông Hồ đã phải thân hành sang Liên Xô xin phép Stalin.
Song không biết vì lý do nào đó Stalin không muốn gặp mặt ông Hồ, nên ông ta đã
phải viết thư cho Stalin. Dưới đây là bức thư viết bằng tiếng Nga của ông
Hồ gửi cho Stalin:
HÌNH : https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/08/Tho-Stalin.jpg
Đồng
chi Stalin thân mến:
Xin
gửi ngài chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam.
Chương trình hành động này được lập bởi chính
tôi với sự giúp đỡ của các đồng chí Lưu Shao
Shi (Lưu Thiếu Kỳ) và Văn Sha San. Đề nghị ngài
xem xét và cho chỉ dẫn.
Gửi lời chào cộng sản.
Hồ Chí Minh.
31/10/1952
Ngay
sau khi được Stalin chấp thuận, trên đường về nước, ông Hồ đã ghé Trung Quốc,
xin đàn anh Mao Trạch Đông và đảng CSTQ hỗ trợ cho chương trình này, bằng cách
mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ trước, cho một số cán bộ CCRĐ từ Việt Nam gửi
sang, và cung cấp một đoàn chuyên gia làm cố vấn cho chương trình này khi được
thực thi ở Việt Nam. Việc thực thi cuộc Cách Mạmg Trời Long Đất Lở trong vùng
quê tôi vào thời gian ấy, được chia ra làm hai giai đoạn: Phóng Tay Phát Động
Quần Chúng Đấu Tranh Chống Địa Chủ đòi giảm tô và CCRĐ Đích Thực.
Quê
tôi, tuy thuộc Liên khu Bắc Việt, do ông Hồ và đảng CSVN kiểm soát kể từ tháng
Tám năm 1945, nhưng lại nằm kế cận với vùng tạm chiếm của Pháp. Vì thế, các
làng xã khác nằm xa vùng tạm chiếm đã thực thi xong giai đoạn I và giai đoạn
II, thì làng tôi mới bắt đầu giai đoạn I vào nửa năm cuối của năm 1954. Sở dĩ
làng tôi hay vùng quê tôi thực thi giai đoạn I cuộc CMRD trễ hơn các làng khác
là vì ông Hồ và đảng CSVN e ngại rằng, nếu thực thi sớm hơn thì bọn địa chủ
trong vùng tôi sẽ trốn chạy sang vùng kiểm soát của quân đội Pháp hết, nên phải
đợi đến thời gian hiệp định Geneva 1954 có hiệu lực, và các đồn bót của quân đội
Pháp phía bên kia sông Hồng và sông Đà đã rút hết về Hải Phòng, ông Hồ và đảng
CSVN mới gửi các đội cán bộ phát động đến làng tôi và các làng lân cận.
Khi
đội Phát Động được phối trí vào làng tôi và các làng lân cận, hầu hết dân làng
không một ai hay biết, mà chỉ thấy lác đác một vài kẻ lạ mặt đi lang thang
trong làng. Đồng thời với một sự kiện lạ mắt khác nữa là, những hàng cột tre,
cao hơn đầu người, trên đầu mỗi cột mang những sợi dây nhỏ bọc cao-su, nối tiếp
nhau chạy dài qua những cánh đồng từ làng này tới làng kia. Lúc đầu, người dân
quê vùng tôi không rõ những cây cột và những sợi dây ấy là cái giống gì, song một
vài ngày sau mới hay đó là hệ thống đường dây điện thoại dã chiến, nối từ bộ chỉ
huy các đội phát động trong mỗi xã tới một nơi nào đó là bộ chỉ huy của đoàn
phát động hay bộ chỉ huy tiền phương cùng ban cố vấn tối cao Trung Quốc.
Ngay
sau khi được phối trí vào làng xã, đội phát động bố trí ngay các thành viên của
đội nắm giữ toàn bộ các chức vụ trong Chi Bộ, Ủy Ban Nhân Dân, và Nông Hội…
trong xã, đồng thời đình chỉ công tác hầu hết các cán bộ và viên chức cũ. Sở dĩ
đội phát động phải làm như thế, là vì trung ương đảng CSVN cho rằng, phần lớn
các cán bộ cũ tuy có chút ít học thức và am tường tình hình địa phương, nhưng
không ít thì nhiều đã bị bọn địa chủ trong làng mua chuộc. Thành phần trong
chính quyền chuyên chính vô sản ở nông thôn, phải là những người thuộc giai cấp
bần cố nông, không tài sản, và đã trải qua nhiều thử thách trong cuộc đấu tranh
chống địa chủ và cường hào ác bá ở nông thôn.
Khi
phối trí vào hoạt động trong một làng xã, đội CCRĐ được ông Hồ và CSVN trao cho
rất nhiều quyền hành, ngoài quyền sinh sát bọn địa chủ trong làng xã, đội còn
có quyền “triệu hồi” hay bắt bớ bất cứ người nào dính líu hay có liên hệ máu mủ
với các gia đình điạ chủ nơi họ đang hoạt động, dù những người ấy có đảng tịch
thâm niên và đang giữ một chức vụ quan trọng trong đảng, trong chính quyền huyện,
tỉnh hay là sĩ quan cao cấp trong quân đội nhân dân, để hạch hỏi, đấu tố và có
thể bị giết nữa. Vì thế vào thời gian này trong vùng liên khu Bắc Việt xuất hiện
câu cách ngôn: “Nhất Đội Nhì Trời.” Vì có quyền lực cao hơn Trời, nên các Đội
CCRĐ đã gây ra không biết bao nhiêu là tang tóc cho rất nhiều người trong vùng
quê tôi nói riêng và cho toàn miền Bắc nói chung.
Sau
một thời gian tìm hiểu, và đã nắm vững tình hình về mọi mặt trong xã, đội phát
động bắt đầu cho nông dân học tập tài liệu của đảng liên quan đến việc phân định
thành phần dân chúng trong làng, sau những đêm học tập là đến những đêm bình bầu.
Trong khi học tập, vì vốn thất học hay ít học, nên thật sự tầng lớp bần cố nông
trong làng tôi không hiểu được rõ ràng về đường lối của Đảng. Do đó, trong những
buổi họp bình bầu thành phần trong làng xã, họ ù-ù cạc-cạc như vịt nghe sấm,
nên đã giơ tay biểu quyết chấp thuận toàn bộ danh sách thành phần dân chúng
trong làng xã do cán bộ phát động thiết lập. Trong danh sách này gồm có các
thành phần sau đây:
-Cố
nông
-Bần
nông
-Trung
nông lớp dưới
-Trung
nông lớp trên
-Phú
nông
-Địa
chủ
Căn
cứ vào tỷ lệ 5% dân số trong làng phải là thành phần địa chủ do cố vấn Trung Quốc
ấn định, và căn cứ vào quy luật bất di bất dịch của ông Hồ và đảng CSVN là: thà
giết lầm 10 người, còn hơn tha lầm một người”, nên số lượng điạ chủ trong làng
tôi trở nên đông đảo hơn trước rất nhiều. Nhiều gia đình trong làng trước đó cứ
đinh ninh rằng, quá lắm là gia đình họ cũng chỉ thuộc thành phần trung nông lớp
trên là cùng, nhưng sau những đêm bình bầu dưới sự lãnh đạo “sáng suốt” và
“công minh” của đội, những gia đình này bỗng được nâng lên thành phần địa chủ,
mà không cần phải kinh qua các thành phần trung gian khác.
Sau
khi bình bầu và phân định thành phần dân làng xong, một số gia đình thuộc thành
phần bần cố nông được đội cử cán bộ CCRĐ đến tận nhà, trước là để “thăm nghèo hỏi
khổ” và sau là thăm dò nếu thấy thuận lợi sẽ đi thêm bước thứ hai nữa là “tam
cùng.” Tam cùng có nghĩa là “cùng ăn, cùng ở, cùng làm.”
Cùng
ăn không có nghĩa là gia đình bần cố phải nuôi cơm cán bộ, mà là cán bộ mang phần
gạo của mình đến góp với gia chủ để nấu ăn chung, và cũng đóng góp một số tiền
nho nhỏ nữa để mua mắm, muối, rau cỏ. Cùng ở, có nghĩa là cán bộ đến ở luôn
trong nhà, ngày cũng như đêm. Cùng làm, có nghĩa là gia chủ làm gì cũng được
cán bộ cùng làm, mà không phải trả công.
Theo
lý thuyết của đảng CSVN, tam cùng có mục đích làm cho nông dân coi cán bộ CCRĐ
như một người bạn “tri kỷ.” Để từ đó có thể “tâm sự” hay bộc lộ với cán bộ này
tất cả những nỗi khổ đau thầm kín đã xẩy ra trong đời họ, trong gia đình họ mà
trước đây họ không dám bầy tỏ cùng ai, hay cũng không có ai đáng tin cậy để bầy
tỏ.
Cũng
từ đó, bất kỳ những khó khăn trở ngại nào đó đã xẩy ra trong quá khứ cho ba đời
của những gia đình bần cố nông này như nghèo đói, dốt nát, khổ đau, bịnh tật,
chết chóc…, đều được cán bộ CCRĐ quy kết là do giai cấp địa chủ gây ra cả. Rồi
cũng từ đó, cán bộ CCRĐ chỉ vẽ cho họ một con đường duy nhất để thoát khỏi tình
trạng nghèo khổ, đói rách, bất công, và có một cuộc sống tốt đẹp và xứng đáng
hơn trong tương lai. Đó là con đường phải triệt để tuân theo và trung thành với
sự lãnh đạo sáng suốt của ông Hồ và đảng CSVN, để vùng lên đấu tranh đào tận gốc,
trốc tận rễ giai cấp địa chủ.
Người
dân quê vùng tôi, tuy chất phác, song cũng đã có một số ít nhận ra được phần
nào sự nguỵ biện trắng trợn và vô lý của các cán bộ phát động, nên họ đã tỏ ra
hoài nghi. Gặp những trường hợp như thế, cán bộ CCRĐ thường đem quyền lợi vật
chất và tinh thần ra để dẫn dụ, như hứa hẹn cho họ vào đảng, cho nằm giữ các chức
vụ trong uỷ ban nhân dân xã, chi bộ đảng, nông hội…, và hứa hẹn sẽ chia chác
cho họ, ruộng đất, nhà cửa, đồ đạc, vật dụng v.v… tịch thu của địa chủ vào những
ngày sắp tới.
Những
gia đình bần cố được chọn để tam cùng đợt đầu, được coi như cái “rễ” và việc
phân công cán bộ đến để tam cùng trong các gia đình này được gọi là “bắt rễ.”
Sau khi đã tam cùng và đã bắt rễ được một gia đình bần cố nông, có nghĩa là đã
tuyên truyền, vận động, móc nối được một gia đình tham gia một cách tích cực
vào cuộc đấu tranh chống địa chủ, và gia đình này đã “giác ngộ” quyền lợi giai
cấp và trung thành với Đảng.
Tới
lúc này cán bộ tam cùng mới yêu cầu gia chủ giới thiệu bạn bè hay thân nhân của
họ có cùng thành phần và cảnh ngộ, để lựa chọn đến tam cùng đợt hai. Việc cán bộ
chuyển “tam cùng” hay “bắt rễ” từ gia đình bần cố này tới gia đình bần cố kia,
được gọi là “xâu chuỗi.” Cứ từng bước một, dần dà cán bộ phát động trong một xã
có thể bắt rễ và xâu chuỗi được một số khá đông bần cố nông nòng cốt tạo thành
một mạng lưới bao vây và đấu tranh chống địa chủ.
Trong
và sau chiến dịch Phát Động Quần Chúng một số đông thành phần bần cố nông nòng
cốt được kết nạp vào đảng, được bố trí nắm giữ các chức vụ như bí thư chi bộ,
chủ tịch ủy ban nhân dân xã và các chức trưởng khác trong các cơ quan đoàn thể
trong làng xã, mặc dù có thể họ chưa đọc thông viết thạo “quốc ngữ.”
Trong
thời gian thực thi chiến dịch Phát Động Quần Chúng Đấu Tranh Chống Địa Chủ ở
làng tôi, bố mẹ tôi cũng như các địa chủ khác trong làng hằng đêm được dân quân
du kích trong làng áp giải đến cuộc buổi họp của nông dân để cho họ tố khố, mắng
chửi, hành hạ và đầy đọa… Ngoài ra, trong những buổi họp này, địa chủ còn bị
truy tô, nghĩa là đòi trả lại cho tá điền số địa tô mà trước đây họ đã bội thu
của tá điền hay người thuê ruộng của địa chủ, đồng thời còn bị tra hỏi về số của
chìm của nôỉ cất giấu, với mục đích trốn tránh việc thoái tô cho nông dân.
Cũng
trong thời gian này gia đình tôi cùng các gia đình địa chủ khác bị bao vây, cô
lập, cấm không được liên hệ với bất cứ người nào trong hay ngoài làng. Nếu liên
hệ với bà con, thì bị nghi ngờ “tẩu tán” tài sản để trốn trả nợ. Nếu liên hệ với
phú nông hay địa chủ khác, thì bị kết tội là cấu kết với nhau để chống phá cách
mạng ruộng đất. Để hạ uy thế giai cấp địa chủ ở nông thôn, đội phát động đã bắt
buộc tất cả điạ chủ trong làng không phân biệt tuổi tác, mỗi khi ra khỏi nhà, hễ
gặp nông dân, bất kỳ lớn nhỏ, phải đứng lại, nép về một phía lề đường, khoanh
tay trước ngực, cúi đầu thật thấp, thưa lớn: “Con xin kính cẩn chào ông/bà nông
dân ạ.” Mặt khác đội cũng bắt buộc nông dân trong làng không được gọi điạ chủ
là ông hay bà mà phải kêu là “thằng này” và “con kia” và cho họ quyền đánh đập,
ném đá, ném đất, mắng chửi, xỉ vả… địa chủ bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.
Bố
mẹ tôi cũng như các địa chủ khác trong làng, ngoài việc bị đối xử như thú vật,
còn thường xuyên bị áp giải tới các buổi họp của nông dân, ngoài việc bị hành hạ,
xỉ vả, và truy tố mà còn làm đối tượng cho bần cố nông “tố khổ” nữa. Trong các
buổi họp tố khổ, bần cố nông trong làng thường nêu lên những lý do, nguyên
nhân, nguồn gốc… của mọi sự nghèo khó, tồi tệ đã xẩy ra trong gia đình họ như
mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu ăn, con cái thất học, ốm đau không tiền thuốc
thang, nhà cửa vào những ngày nắng ấm thì trứng gà treo đầy trên vách, vào những
ngày mưa thì có thể tắm gội ngay trong nhà… nhất nhất đều đổ lên đầu địa chủ.
Số
ruộng đất mà bố mẹ tôi có vào thời gian ấy chỉ vào khoảng 50 mẫu ta. Một mẫu Ta
(Việt Nam) có diện tích là 3,600 mét vuông. Một mẫu Tây (French) có diện tích
là 10,000 mét vuông. Nếu tính bằng mẫu Tây, gia đình tôi chỉ có khoảng 17 mẫu.
Một số là do ông bà nội tôi để lại cho bố mẹ tôi, một số là của hồi môn của mẹ
tôi, và một số khác do công lao của bố mẹ tôi buôn bán, tần tảo, dành dụm trong
nhiều năm mới mua thêm được. Dành dụm hay tiết kiệm được bao nhiêu là bố mẹ
không mua vàng lá để cất giữ, mà mua ruộng đất để đầu tư. Người Việt thời xưa
thường nghĩ rằng “tiết kiệm hay đầu tư hoạch để dành tiền bạc không gì bằng mua
ruộng đất,” vì ruộng đất trồng tỉa và cấy lúa được thì có giới hạn, còn con người
thì mỗi ngày một đông, nên không bao giờ lo mất giá cả, và cũng không lo có một
đảng cướp nào có thể lầy được ruộng đất mang đi. Ông bà ta ngày xưa chắc không
thể nào tưởng tượng được rằng vào giữa thế kỷ 20 lại có một đảng cướp lớn có
tên là đảng CSVN, có thế cướp ruộng đất của tất cả mọi người.
Khi
chiến dịch Phát Động Quần Chúng Đấu Tranh Chống Địa Chủ thực thi tại làng tôi,
bố mẹ tôi, ngoài việc bị kết tội là cấu kết với thực dân phong kiến và lợi dụng
thời cơ để mua ruộng đất của nông dân với giá rẻ mạt, còn bị lên án là đã vi phạm
trầm trọng Sắc Luật Giảm Tô số 78/SL của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Theo sự
giải thích của đội phát động, thì đạo luật này được ban hành vào ngày 14/7/1949
tại liên khu Bắc Việt, nghĩa là ở trong một khu rừng âm u nào đó thuộc tỉnh
Thái Nguyên hay Tuyên Quang và đã được công bố trên mặt báo Nhân Dân cũng được
phát hành trong vùng rừng núi âm u này.
Vào
lúc ban hành đạo luật này, toàn bộ vùng đất do Việt Minh Cộng Sản kiểm soát
đang thi hành chính sách tiêu thổ kháng chiến, nên hầu hết đường xá và cầu cống
trong vùng hoặc được đắp ụ cao, hay đào hào sâu, hoặc bị phá huỷ, nên việc đi lại
rất khó khăn và vô cùng vất vả. Do đó, tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức
của đảng CSVN, không được bán cho dân mà chỉ phổ biến trong nội bộ Đảng và các
cơ quan nhà nước. Mỗi chi bộ xã và Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến trong vùng quê
tôi, mỗi số cũng chỉ được một vài tờ. Đôi khi vì tình hình chiến sự, báo gửi
cho đảng ủy xã còn bị thất lạc, nên họ cũng không có báo để đọc huống chi đối
thường dân sống trong khu vực này. Với tình hình giao thông trở ngại và báo chí
hiếm hoi như thế, nên hầu như dân vùng quê tôi chẳng mấy ai được thấy mặt mũi của
tờ báo Nhân Dân, còn nói chi đến trường hợp một địa chủ ở vùng quê hẻo lánh được
cầm trong tay tờ báo Nhân Dân công bố Sắc Luật Giảm Tô để đọc. Do đó, địa chủ
trong vùng tôi hầu như không hề biết đến sắc luật giảm tô của ông Hồ tròn hay
méo thế nào để thi hành.
Cũng
theo sự giải thích của đội, thì trước khi có luật giảm tô, tá điền phải nộp cho
địa chủ thường là 50% tổng số thóc mà họ thâu hoạch được trên thửa ruộng của địa
chủ, hoặc theo số lượng thóc hay tiền mà hai bên đã thỏa thuận trước với nhau.
Kể từ khi có Sắc luật 78/SL được ban hành, tá điền vẫn được giữ lại 50% như trước,
và còn được giảm 25% trong số 50% nộp cho địa chủ, tức là lấy thêm 12.5% trong
tổng số thóc thâu hoạch. Nói khác đi là, kể từ khi sắc luật giảm tô có hiệu lực,
người thuê ruộng hay tá điền được hưởng 62.5% thay vì 50% tổng số hoa lợi thâu
hoạch của thửa ruộng cho thuê; còn địa chủ chỉ được hưởng có 37.5% thay vì 50%
như trước.
Theo
cách tính bình quân, nhân sản lượng và tỷ lệ giảm tô 25%, để tìm ra số thóc mà
gia đình tôi đã bội thu của tá điền từ năm 1947, năm sắc luật giảm tô bắt đầu
có hiệu lực tới năm 1954, năm làng tôi bắt đầu thực thi chương trình CCRĐ, cán
bộ phát động đã tính trồng tréo thế nào không biết, mà gia đình tôi đã bội
thu của tá điền lên tới con số hàng chục ngàn tấn thóc. Cán bộ nói ra bao nhiêu
là chúng tôi phải chấp nhận bấy nhiêu. Vì không tin vào khả năng tính toán của
đám cán bộ, nên đã nhiều lần gia đình tôi yêu cầu cho phép chúng tôi được tính
lại, song chẳng những không được chấp thuận mà bị kết tội là ngoan cố nữa. Tính
ra, gia đình tôi chỉ cho cấy rẽ phần lớn số ruộng đang có trong vòng 5 hay 6
năm thôi, mà số tô bội thâu đã lên cao đến nỗi, nếu bán hay gán tất cả số ruộng
đất mà gia đình hiện có theo thời giá cho nông dân vào lúc bấy giờ đi nữa, cũng
chỉ trả được phân nửa số tô bội thu mà gia đình tôi đã thu của tá điền. Số còn
lại, có lẽ bố mẹ tôi phải trả bằng chính mạng sống của họ.
Để
truy thâu món nợ to lớn này, bố mẹ tôi bị áp giải, lúc cả hai lúc riêng rẽ, hết
trụ sở của Ủy Ban Nhân Dân xã, tới trụ sở của đội, trụ sở của nông hội, hay tới
những buổi họp của bần cố nông hầu như mỗi đêm. Tại những trụ sở này, chúng doạ
nạt, thúc ép, dụ dỗ bố mẹ tôi khai báo về số của chìm, cùng các tài sản khác
còn giấu giếm hay gửi gấm, phải moi ra trả món tô bội thu cho nông dân. Là con
cái địa chủ, tôi cũng thường được “mời” tới các buổi học tập do đội tố chức để
được nghe giảng giải về đường lối của Đảng và Nhà Nước, và đặc biệt là về chính
sách đối xử rất khoan hồng với con cái địa chủ. Vì muốn chia để trị, nên Đảng
không coi con cái địa chủ, khi chúng chưa trực tiếp tham gia vào công việc bóc
lột nông dân, là địa chủ, và chỉ coi họ là thành phần có liên hệ máu mủ với địa
chủ mà thôi. Do đó chúng không gọi chúng tôi là thằng này con kia, và cũng
không bị chửi bới thậm tệ như bố mẹ tôi. Chúng thường dùng những lời lẽ nhẹ
nhàng để thuyết phục và “chiêu hồi” con cái địa chủ đứng về phía nông dân tố cáo
tội ác của bố mẹ chúng.
Riêng
tôi, vì đã được học hết lớp 7, tương đương với lớp đệ tứ trong vùng quốc gia,
nên chúng đã khai thác triệt để việc được đi học này để thuyết phục tôi đầu
hàng giai cấp nông dân và tố cáo tội lỗi của bố mẹ tôi đối với nông dân. Hết
cán bộ đội phát động, đến cán bộ nông hội, rồi đến cả mấy ông, bà bần cố vừa mới
được bắt rễ xâu chuỗi nữa, cứ lập đi lập lại như con vẹt tập nói, như con trâu
nhai lại rằng, việc tôi được học hết 4 năm bậc tiểu học, và ba năm trung học là
công lao và mồ hôi nước mắt của nông dân, mà không phải là của thằng Quang (bố
tôi) và con Quán (mẹ tôi) vì họ không trực tiếp tham gia lao động nên không thể
sản xuất ra của cải và lúa gạo được. Họ bảo tôi phải ý thức rõ điểm này, đừng để
lòng yêu thương cha mẹ mù quáng, làm mất sáng suốt trong việc nhận định đúng đắn
ai là thù, ai là bạn của bản thân. Nói thế, có nghĩa là đám cán bộ của đội phát
động muốn tôi phải coi bố mẹ tôi là kẻ thù của tôi.
Họ
cũng an ủi tôi rằng đừng quá lo lắng về vấn đề con cái địa chủ, vì Đảng rất
quang minh, chính đại, và chỉ đánh những kẻ chạy đi, không bao giờ đánh kẻ chạy
lại. Họ còn nêu ra nhiều trường hợp điển hình như con tố cha, vợ tố chồng, con
cháu tố ông bà nội ngoại… trong làng tôi và trong vùng quê tôi, nghĩa là toàn
những chuyện trái tai gai mắt, trái với luân thường đạo lý của ông bà ta ngày
xưa, để tôi khuyên bảo và khuyến khích tôi noi theo. Những lời “vàng ngọc” của
đám cán bộ rót vào tai tôi lúc ấy khi trầm, khi bổng, khi chậm, khi nhanh,
nhưng tất cả đều như “nước đổ đầu vịt” hay “nước đổ lá khoai” vô tai này, ra
tai kia. Những lời lẽ “quý báu” mà ông Hồ và đảng CSVN dậy bảo họ bấy lâu nay,
bây giờ họ moi ra để nhai lại rót vào tai tôi. Quả thật những lẽ trái với luân
thường đạo lý này không thể nào lọt vào tai tôi được, song tôi cũng không dám
phản đối, vì kinh nghiệm trong những năm tháng dài sống với Bác và Đảng cho biết
là “nhẫn nhục” là vàng.
(còn
tiếp)
Cuộc
Cách Mạng Ruộng Đất 1954 ở làng tôi (Kỳ cuối)
Huy Vũ - Saigon Nhỏ
1
tháng 9, 2024
https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/cuoc-cach-mang-ruong-dat-1954-o-lang-toi-ky-cuoi/
HÌNH
: https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/08/Dau-to-dia-chu-ban-dem_hinhanhlichsu.org_.jpg
Thời
kỳ cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1954-1956). (Tranh: Phan Thông. Hình:
hinhanhlichsu.org)
Gia
đình tôi thành thật khai báo là của chìm thật sự chẳng còn gì, có vài ba chỉ
vàng đã đem ra ủng hộ chính phủ ông Hồ trong chiến dịch “đổi vàng lấy súng cối
xay” vào cuối năm 1945.
Còn
của nổi, ngoài nhà cửa, ruộng vườn, chỉ còn một số đồ đạc lỉnh kỉnh, trong thời
gian chiến tranh, đem gửi tại căn nhà một người bạn “cửa Khổng sân Trình” của bố
tôi trong làng Thạch Cáp, song chẳng may căn nhà này đã bị máy bay Pháp thả bom
làm cháy rụi mất rồi. Bố mẹ tôi cũng báo cáo cho đội biết là gia đình tôi còn một
số đồ cổ hiện đang được gửi tại nhà một người quen khác trong làng Thanh Mai ở
sâu trong vùng đồi núi cùng huyện Lâm Thao và cách làng tôi khoảng 6 hay 7 cây
số theo đường chim bay. Ngay sau khi biết được tin này, đội cải cách ruộng đất
đã cấp giấy phép cho gia đình tôi đi lấy hết những đồ cổ này về để bán và gán nợ
cho nông dân.
Khi
anh tôi và tôi vào làng Thanh Mai trình giấy tờ để xin lấy lại số đồ cổ này,
ông chủ nhà cho biết là, riêng cá nhân ông không có gì trở ngại cả, song vì
làng Thanh Mai của ông cũng đang thực thi chiến dịch Phát Động Quần Chúng Đấu
Tranh Chống Địa Chủ, nên ông đã khai báo số đồ cổ này với đội phát động rồi. Do
đó việc trả lại cho chúng tôi, ông cần phải có sự chấp thuận của họ. Ông dẫn
chúng tôi tới gặp một cán bộ phát động hiện đang “tam cùng” trong một gia đình
cố nông gần đó.
Cán
bộ này giải thích cho chúng tôi hay: “Đảng và Nhà Nước đã qui định rõ ràng rằng,
của cải của địa chủ để ở đâu, thì tịch thu, chia cho nông dân ở đó,” vì thế
ông ta không thể cho phép chúng tôi lấy những đồ đạc này mang về làng Bản
Nguyên được. Chúng tôi không dám phàn nàn hay khiếu nại gì về quyết định này cả,
mà chỉ xin ông ta viết cho mấy chữ và ký tên vào mặt sau của tấm giấy giới thiệu,
để có bằng chứng cụ thể trình cho đội phát động làng tôi.
Dù
đã hết sức thành thật khai báo nhưng cán bộ phát động vẫn không tin vào sự
thành khẩn của gia đình tôi, nên vẫn cắt cử dân quân du kích hay nông dân thường
xuyên theo dõi nhất cử nhất động của từng người trong gia đình tôi để xem chúng
tôi đang giấu của chìm ở đâu? Khi gọi gia đình tôi đến trụ sở của đội hay của
nông hội để làm việc hay truy tô hoặc tố khổ, là một dịp thuận tiện cho những
người bần cố nông có nhiệm theo dõi gia đình tôi xâm nhập vào nhà lục soát, và
tìm kiếm của cải giấu giếm trong nhà. Chúng dùng những cây xiên bằng sắt soi
mói từng tấc đất trong nhà, trong vườn để tìm kiếm vàng bạc, châu báu mà chúng
nghĩ là gia đình tôi đã chôn giấu đâu đó.
Trong
thời gian đội hoạt động trong làng tôi, vì chính sách cô lập địa chủ, nên học
trò cũ và bà con họ hàng của bố tôi trong làng cũng khá đông, song không một ai
dám bén mảng tới thăm hỏi hay giúp đỡ gia đình tôi. Căn cứ vào chính sách CCRĐ,
cán bộ phát động không cho phép một ai được tiếp xúc với địa chủ, không ai được
thuê mướn địa chủ, không ai được phép cho địa chủ tiền bạc hay thực phẩm. Bất cứ
ai vi phạm lệnh cấm này, nhẹ thì bị phê bình cảnh cáo, nặng thì sẽ bi coi như địa
chủ và bị đối xử như địa chủ. Với chính sách cô lập độc ác này, địa chủ muốn đi
ăn mày cũng không được, vì không ai dám cho; muốn đi làm thuê cũng không xong,
vì không ai dám mướn. Chỉ còn có mỗi một nước là đi lang thang mót hay lượm những
củ khoai lang hay khoai mì còn sót lại trên đồi nương hay đồng ruộng để ăn sống,
rồi chết dần chết mòn vì đói khát.
Một
người anh họ cùng chung đầu ông nội với tôi, anh Vũ Huy Cảnh, ở làng Quỳnh Lâm,
cùng thuộc xã Hùng Tiến, huyện Lâm Thao, với làng Bản Nguyên cuả tôi, đã chết
trong tình huống như thế. Cứ mỗi lần nghĩ tới anh, dù đã hơn 70 năm trôi qua,
tôi vẫn không cầm được nước mắt, vì bị cô lập trong chiến dịch CCRĐ của ông Hồ
đã khiến anh chết đói vào lúc mới 25 tuổi đầu. Bố mẹ tôi và tôi sở dĩ có thể sống
sót được là nhờ cô con gái nuôi đã hơn mười tuổi, và người con cả đã ở riêng có
vợ thuộc thành phần trung nông, nên họ không bị đối xử quá khắt khe như địa chủ.
Theo
chính sách CCRĐ, con nuôi địa chủ, dù được nuôi dưới bất kỳ hình thức nào, đều
được coi là nuôi để bóc lột sức lao động, chứ không phải nuôi vì tình thương
yêu. Vì thế con nuôi địa chủ được cán bộ phát động chiếu cố, và còn được coi là
thành phần cốt cán, ưu đãi. Cũng theo chính sách CCRĐ, thành phần trung nông được
coi là bạn liên kết và ủng hộ thành phần bần cố nông trong công cuộc đấu tranh
chống địa chủ. Với tình trạng nhân sự trong gia đình tôi như thế, cô con gái
nuôi từ hồi mới sinh và cô con dâu thành phần trung nông có thể giúp cho anh
tôi giữ lại được khu vườn trại làm nguồn sinh sống tạm bợ cho cả gia đình. Nhờ
đó mà cứ đôi ba ngày cô con gái nuôi lại lén lút tới thăm và tiếp tế cho dăm ba
chén gạo. Mỗi nồi cơm cho bố mẹ tôi và tôi chỉ có hơn nửa chén gạo, nấu độn với
bốn năm quả chuối xứ hay chuối tiêu xanh tước vỏ sắt nhỏ như hạt lựu, ăn cho
qua ngày.
Trong
giai đoạn Phát Động Quần Chúng Đấu Tranh Chống Địa Chủ, mẹ tôi là người gặp nhiều
khó khăn nhất, vì bà vốn là con gái thành thị, chưa từng phải lam lũ, chân lấm
tay bùn. Mang tiếng là vợ địa chủ, song bà chưa bao giờ đặt chân tới những thửa
ruộng của gia đình tôi, và cũng chẳng biết những thửa ruộng ấy lớn nhỏ và nằm ở
xó xỉnh nào trên cánh đồng sau làng nữa. Suốt ngày mẹ tôi chỉ quanh quẩn trong
nhà trông nom con cái và điều khiển người ăn người làm thế thôi.
Vào
thời gian ấy, mẹ tôi bị chứng thấp khớp hành hạ, các khớp xương xưng phù, đau
nhức ngày đêm, và gia đình tôi lại đang lâm vào cảnh túng quẫn đến nỗi không có
tiền để thuốc thang, và bà đã phải dùng mấy thứ lá cây uống đắp cho đỡ đau thế
thôi. Mẹ tôi hầu như không thể đi xa được, ấy thế mà vẫn bị du kích vác súng tới
nhà để áp giải bà đến Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến xã để truy tô, hay đến các
buổi hội họp của nông dân để nhận những lời tố khổ oan nghiệt và những lời sỉ vả
đắng cay. Vì quá sợ đến nỗi quên hết cả đau nhức và có thể đi lại dễ dàng, dù
quãng đường từ nhà tôi đến các nơi ấy có khi lên tới hai ba cây số. Thế mới biết
súng đạn, có hiệu lực hơn cả thuốc thang.
Theo
nguyên tắc, vào cuối giai đoạn I của cuộc CM/TL/ĐL, mỗi xã phải chọn một hay
hai địa chủ gian ác nhất để mang ra đấu tô công khai, trong một cuộc meeting lớn
toàn xã. May mắn là bố tôi không được chọn làm địa chủ lọai cao cấp này. Tuy
nhiên, đội cũng đã gửi bố tôi đi tham dự một khoá học tập cải tạo đặc biệt dành
cho các địa chủ trong vùng, được tổ chức tại làng Cổ Pháp thuộc tỉnh Sơn Tây, nằm
ở phía bên kia sông Hồng và chỉ cách làng tôi khoảng 6 cây số theo đường chim
bay. Người được chọn là địa chủ ác ôn nhất trong xã Hùng Tiến, gồm ba làng Bản
Nguyên, Thành Chu và Quỳnh Lâm là cụ Bá Hảo, người làng Thành Chu. Vào năm
1954,
cụ Bá Hảo đã ngoài 70 tuổi, song vẫn còn tráng kiện, gia sản tài của cụ có khoảng
100 mẫu ta ruộng đất, và một dinh cơ đồ sộ nằm trong làng Thành Chu. Người con
cả của cụ Bá là ông Diệm đã từng làm Chánh Tổng, tổng Vĩnh Lại trước năm 1945.
Sở dĩ cụ Bá Hảo bị đem ra đấu tố là vì cụ bị quy kết là là địa chủ gian ác, cường
hào ác bá, và việt gian phản động.
Buổi
đấu tố cụ Bá Hảo, được tổ chức ở khoảng đất trống trong khu Vườn Vải, ngay sau
dinh cơ của cụ; tất cả người dân trong xã Hùng Tiến gồm ba làng Bản Nguyên,
Thành Chu, và Quỳnh Lâm đều phải nghỉ các công việc đồng áng và buộc phải tham
dự. Những kẻ vắng mặt không lý do chính đáng có thể bị nghi ngờ là có cảm tình
với địa chủ, vì thế người tham dự khá đông đảo. Quang cảnh buổi đấu tố cụ Bá Hảo
của xã Hùng Tiến hôm ấy nói riêng, cũng như các buổi đấu tố địa chủ trong các
xã khác thuộc huyện Lâm Thao nói chung, thường được sắp xếp chung chung như
sau:
Chiếc
bàn của chủ tọa đoàn được đặt trên một sàn gỗ và thường cao hơn mặt đất độ nửa
thước tây. Sau bàn chủ tọa đoàn là một bức phông cao rộng bằng lá cây hay bằng
những tấm cót. Trên bức phông là hình của Malenkov, Thủ Tướng nước Cộng Hòa
Liên Bang Xô Viết; hình Hồ Chí Minh, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa va
hình Mao Trạch Đông, Chủ Tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Trước mặt và cận
kề bàn chủ tọa đoàn là một mô đất có hình tròn hay một hố tròn đường kính khoảng
6 tấc được dùng như vành móng ngựa và là chỗ đứng của địa chủ trong khi bị đấu
tố. Trước hố đấu, là một khoảng trống rộng rãi với những ô hình chữ nhật được kẻ
bằng vôi bột dùng làm chỗ đứng cho các thành phần tham dự. Trên tay những người
tham dự là những lá cờ đỏ sao vàng lớn nhỏ khác nhau, hay nhưng biểu ngữ mang
những khẩu hiệu như:
-Chủ
tịch Hồ Chí Minh muôn năm
-Đảng
Lao Động Việt Nam muôn năm
-Đả
đảo địa chủ cường hào ác bá.
Sau
khi nghi lễ chào cờ và mặc niệm, một cán bộ của đội, lưng đeo xà cột, đầu đội
nón cối trong bàn chủ toạ đoàn đứng lên tuyên bố lý do, rồi ra lệnh cho dân
quân du kích dẫn giải địa chủ Hảo ra hố đấu. Cụ Bá Hảo, hai cánh tay bị trói
quặt ra phía sau lưng, và được áp giải tới hố đấu bởi hai chú dân quân du kích,
súng cầm tay và đạn đã lên nòng. Ngay sau khi thấy cụ Bá Hảo hiện ra, đám người
tham dự hô vung tay hô vang dội khẩu hiệu để đánh phủ đầu và uy hiếp tinh thần
địa chủ Hảo:
-Đả
đảo địa chủ Hảo gian ác! Đả đảo, đả đảo, đả đảo.
-Đả
đảo địa chủ Hảo cường hào ác bá! Đả đảo, đả đảo, đả đảo.
-Đả
đảo địa chủ Hảo việt gian bán nước! Đả đảo, đả đảo, đả đảo.
Rồi
một thành viên khác trong bàn chủ tọa đoàn đứng lên tóm tắt tiểu sử, cùng quá
trình bóc lột và gây tội ác cùng thành tích làm tay sai cho thực dân Pháp hãm hại
nông dân nghèo của địa chủ Hảo. Đồng thời hắn cũng kêu gọi nông dân trong xã mạnh
dạn tố cáo tội ác Trời không dung Đất không tha của địa chủ Hảo. Hàng ngàn cánh
tay trong đám người tham dự đưa lên, như muốn tranh dành lấy vinh dự là người đầu
tiên đứng ra đấu tố địa chủ Hảo. Song dường như việc kêu kẻ trước, người sau
trong việc tố cáo địa chủ Hảo đã được sắp xếp từ trước, nên thành viên này chỉ
việc căn cứ vào danh sách đó, lần lượt mời gọi từng người ra đấu tố địa chủ Hảo.
Những
người được chỉ định đứng ra đấu tố thường là bần cố nông ít học, nhút nhát,
không quen ăn nói trước đám đông. Mặt khác, phần lớn những sự kiện đem ra đấu tố
không có thật, hoặc chỉ là một việc bé được xé ra to, hay được thổi phồng lên để
cường điệu hoá sự tàn ác của địa chủ, nên rất dễ quên. Vì thế những ông bà bần
cố nông được cán bộ phát động chiếu cố đưa vào vai trò đấu tố địa chủ phải tập
dượt đi, tập dượt lại rất nhiều lần trước ngày tấn tuồng đấu tố được mang ra
trình diễn trước công chúng. Những ông bà bần cố nông này phải tập dượt từ cách
đi đứng, cách xỉa xói vào mặt địa chủ, cách vung tay tát vào mặt địa chủ, cách
lên giọng, xuống giọng trong lúc tố cáo, nhất cử nhất động phải phù hợp và ăn
khớp với nhau. Có làm được như thế mới biểu lộ được hết được lòng căm thù sâu
xa ba đời đã bị địa chủ bóc lột, và người tham dự mới tin là điều tố cáo là có
thật, đồng thời cũng là một dịp tốt làm tăng thanh danh và uy tín của Bác và Đảng.
Hầu hết những người ra đấu tố đều mở đầu bằng câu sáo ngữ như:
-Mày
có nhớ hay biết ông/bà là ai không?
Không
cần phải đợi địa chủ trả lời, nhớ hay không nhớ hoặc biết hay không biết, người
tố cáo liền nói sơ lược về lý lịch ba đời bần cố nông của mình, rồi kể vanh
vách những tội ác mà cụ bá Hảo đã gây cho gia đình và cá nhân họ. Trong khi
kể tội, chúng xỉa xói vào mặt địa chủ, gào thật to, hét thật lớn như để biểu lộ
lòng căm thù sục sôi đã nung nấu trong tâm can. Phần lớn bần cố nông tố cáo cụ
Bá Hảo là đã lợi dụng uy quyền để mua rẻ ruộng đất, hoặc dùng những thủ đoạn
thâm độc để chiếm hữu ruộng đất của họ, hay lợi dụng lúc họ gặp khó khăn trong
gia đình như có người đau ốm mà không có tiền để thuốc thang, hoặc tang gia
túng thiếu để cho vay lấy lời cao gấp bội.
Một
vài mụ bần cố nông, khi được gọi bước ra đấu tố, đã cố gắng hết mình làm ra vẻ
ta đây giận giữ và căm thù điạ chủ tới mức tột cùng, xăm xăm bước tới hố đấu,
vung tay tát vào mặt cụ Bá Hảo đôm đốp, rồi tố giác là cụ hãm hiếp họ. Cứ mỗi lần
một gã hay một mụ bần cố nông tố cáo cụ Bá Hảo về một tội nào đó, là lại một lần
hỏi:
“Bớ
thằng địa chủ Hảo gian ác, mày có nhận tội của mày hay không?
Nếu
cụ Bá Hảo chưa kịp hay còn lưỡng lự chưa chịu nhận tội, là đám đông tham dự lại
hô vang khẩu hiệu “Đả đảo địa chủ ngoan cố” và khẩu hiệu này được hô đi hô lại
nhiều lần cho đến khi nào cụ Bá Hảo nhận tội mới ngưng.
Theo
lý thuyết việc đấu tố địa chủ trong CCRĐ được kết hợp dưới ba hình thức:
-Đấu
lý: Dùng lý luận để bẻ gẫy lý luận của địa chủ.
-Đấu
pháp: Dùng pháp luật để buộc tội địa chủ.
-Đấu
lực: Dùng lực lượng quần chúng nông dân đế áp đảo địa chủ.
Song
trong thực tế, qua các buổi đấu tố địa chủ, người ta nhận ra ngay được rằng, chẳng
làm gì có đấu lý cả, vì địa chủ có bao giờ được phép dùng lý luận hay nhờ luật
sư biện hộ để minh chứng là mình vô tội đâu, mà chỉ được phép cúi đầu nhận tội
mà thôi, dù biết chắc chắn 100% đó là một tội hoàn toàn vu khống. Người ta cũng
nhận ra rằng, làm gì có đấu pháp, vì không thể dựa vào vài ba đạo luật rừng được
ông Hồ ký ban hành trong rừng, để kết tội địa chủ được, vì những đạo luật này
hoàn toàn thiếu căn bản pháp lý. Đây rõ ràng chỉ là cuộc đấu lực, dùng lực lượng
đông đảo của bần cố nông cộng với lực lượng của đảng CSVN dưới sự dắt dẫn lươn
lẹo của ông Hồ để triệt tiêu giai cấp địa chủ mà thôi.
Chiến
dịch đấu tố ở làng xã tôi và những làng xã kế cận kết thúc với nhiều địa chủ phải
đi tù, nhưng chưa có ai bị xử tử cả, vì theo đường lối và chính sách của cuộc cải
cách ruộng đất, giai đoạn II, mới là giai đoạn thật sự xóa bỏ hoàn toàn giai cấp
địa chủ. Hầu hết địa chủ trong giai đoạn này, nếu không bị xử tử ngay tại chỗ
sau khi bị đấu tố, thì cũng bị tuyên án tù chung thân, toàn bộ tài sản bị tịch
thu chia cho nông dân nghèo.
Vì
tin rằng sẽ bị giết hay bị tù không có ngày về vào giai đoạn II sắp tới, nên một
hôm vào cuối giai đoạn I, bố mẹ tôi bảo tôi:
“Con
đã trưởng thành rồi. Bố mẹ cũng đã cũng đã ngoài 60 cả rồi, mẹ con lại bịnh tật
và đau yếu đã mấy năm nay, không tiền thuốc thang, cơm độn quá nửa chuối xanh,
song cũng chẳng có bữa nào được ăn no, như thế mẹ con làm sao có thể sống được
vào những ngày tối tăm sắp tới? Như con đã kể cho bố mẹ biết về những gì mà con
đã chứng kiến trong cả hai giai đoạn cải cách ruộng đất tại làng Sơn Lũng xã
Xuân Huy, nơi con trọ học trong mấy năm vừa qua; cũng như những tin tức mà bố
được biết qua lớp học cải tạo địa chủ tại làng Cổ Pháp mới đây, bố tin chắc rằng
bố không thể sống sót được trong giai đoạn II sắp tới, nếu không bị xử bắn tại
chỗ sau khi bị đấu tố thì cũng phải đi tù mọt gông, không có ngày trở về. Còn
nhà cửa ruộng vườn vào cuối giai đoạn II sẽ bị tịch thu tất tần tật để chia cho
các ông bà bần cố nông. Trước khi mẹ con chết vì đói hay chết vì ốm đau, bố chết
vì bị bắn hay chết mục xương trong tù, bố mẹ muốn thấy con được yên bề gia thất,
mới yên lòng xuôi tay nhắm mắt.
Trước
đây, bố mẹ đã có ý ngắm cô Giáng, con ông bà Lý Xung ở cùng xóm cho con. Như
con đã biết, cô Giáng kém con một tuổi, đẹp cả người lẫn nết; song trong thời
gian trước đây con còn đang đi học, và bố mẹ cũng không lâm vào một tình khó
khăn nào đáng kể cả, nên bố mẹ nghĩ để một vài năm nữa mới thưa chuyện này với
ông bà Lý Xung cũng chưa muộn màng gì? Song bây giờ tình thế đổi thay, xem ra
việc này khó có thể trì hoãn thêm được nữa, nên bố mẹ thấy cần phải làm tròn bổn
phận của cha mẹ đối với con cái là lập gia đình cho con trước khi bố mẹ về với
ông bà ông vải.”
Trong
khi bố tôi nói với tôi những lời lẽ trối trăng, mẹ tôi đã hỗ trợ cho bố tôi bằng
những làn nước mắt tuôn trào. Với tình huống tuyệt vọng của mẹ tôi và những lời
trối trăng thống thiết của bố tôi như thế, làm sao tôi có thể không vâng lời bố
mẹ tôi được, dù thật tình tôi chưa muốn lập gia đình vào lúc khó khăn này.
Lúc
ấy đã là cuối tháng Chạp năm Giáp Ngọ, sắp sửa bước sang năm Ất Mùi (1954) và
tôi đã 19 tuổi đầu, nên tôi chỉ xin bố mẹ tôi tạm hoãn việc này cho đến sang
năm ngày rộng tháng dài, mới đề cập chuyện này với ông bà Lý Xung. Một vài ngày
sau, anh tôi đến thăm và tiếp tế cho bố mẹ tôi vài ba bát gạo. Anh cho biết là
anh đã lén đi Hà Nội thăm viếng bà con họ hàng đang sống trong thành phố này,
tuy lúc ấy Hà Nội đã được “Bác và Đảng” tiếp quản. Anh cũng cho biết thêm là hầu
hết bà con ở Hà Nội đều lo lắng cho số phận đen tối của gia đình tôi, và họ
cũng cho anh tôi biết thêm là, hiệp định Geneva, ngoài những điều khoản vãn hồi
hòa bình và chia đôi đất nước, còn có những điều khoản cho phép dân chúng hai
miền, miền Bắc Cộng Sản và miền Nam Tự Do, được tự do chọn lựa nơi cư trú và
sinh sống.
Hầu
hết địa chủ trong vùng quê tôi không hề hay biết điều khoản này. Họ cũng khuyên
gia đình tôi nên gấp rút tìm đường trốn về Hà Nội, rồi từ Hà Nội tìm đường trốn
xuống cảng Hải Phòng, vì Hải Phòng lúc ấy vẫn còn trong tay quân đội Pháp và
Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam trong một vài tháng nữa thôi, và nơi đây đang có
chương trình giúp đỡ đưa những người miền Bắc lánh nạn cộng sản vào miền Nam
sinh sống.
Bố
mẹ tôi và anh em tôi đều cùng chung một nhận định, đây là môt cơ hội tốt nhất để
thoát ra khỏi tình trạng bế tắc của gia đình chúng tôi. Một kế hoạch trốn chạy
của gia đình tôi được thành hình. Một vài ngày sau đó, chúng tôi lợi dụng những
đêm tối trời vào cuối tháng Chạp, và cũng là lúc đội phát động đã rút ra khỏi
làng, và đám dân quân du kích cùng các ông bà bần cố nông có trách theo dõi gia
đình tôi đang chúi mũi vào lo công việc tết nhất, nên có phần chểnh mảng trong
việc canh gác và kiểm soát gia đình tôi.
Cuộc
trốn chạy vào miền Nam của gia đình tôi vào cuối năm Ất Mùi, tuy có gặp một số
khó khăn trở ngại, song có lẽ nhờ vào sự phù hộ, độ trì của tổ tiên và Trời Phật
nên đã thành công mỹ mãn. Nếu không nhanh chân, bỏ của chạy lấy người thì bố mẹ
tôi đã phải phơi thây trên đất Bắc cùng với hơn 100,000 địa chủ khác rồi, và
chúng tôi với thành xuất thân là con cái địa chủ sẽ muôn đời không ngóc đầu lên
được để nhìn thấy mặt trời.
Cũng
nhờ vậy, mà ngày hôm nay, tuy đã 70 năm trôi qua, dù đã bước vào tuổi 90 tôi
còn có dịp ngồi gõ vào bàn phím của máy điện toán để viết lại những gì mà gia
đình tôi cũng như các gia đình địa chủ khác ở miền Bắc đã phải gánh chịu trong
cuộc “Cách Mạng Ruộng Đất Trời Long Đất Lở” của ông Hồ và của cái gọi là đảng
CSVN.
Sau
hết, xin coi bài viết này như là một nén hương muộn màng tưởng niệm những linh
hồn của hơn 100,000 địa chủ miền Bắc đã bị ông Hồ và các đồng chí của ông giết
oan 70 năm trước đây. Trong số này có linh hồn cụ Bá Hảo người làng Thành Chu
cùng trong một xã với bố mẹ tôi và linh hồn của anh Vũ Huy Cảnh, người làng Quỳnh
Lâm và cũng là anh họ cùng chung đầu ông nội với tôi.
No comments:
Post a Comment