Chiến sĩ Phạm Đức Cường
kể chuyện Biệt Cách Dù Lực Lượng Đặc Biệt
Lâm Hoài Thạch/Người Việt
August
31, 2024 : 5:22 PM
WESTMINSTER,
California (NV) –
Như bao thanh niên miền
Nam Việt Nam khác trong thời loạn lạc, chàng trai Phạm Đức Cường nhập ngũ năm
1962, Khóa 14 Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, và ra trường
ngày 15 Tháng Sáu, 1963, với cấp bậc chuẩn úy. Tổng Thống Ngô Đình Diệm đặt tên
cho khóa Khóa 14 là Khóa Nhân Trí Dũng.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2024/08/CCB-Pham-Duc-Cuong-1-1-1536x1048.jpg
Ông
Phạm Đức Cường (trái) và phu nhơn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong Đại Hội
Thiết Giáp VNCH, California. (Hình: Phạm Đức Cường cung cấp)
Sau
này, Trường Võ Khoa Thủ Đức được gọi là Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, hay Trường
Bộ Binh Thủ Đức. Chỉ huy trưởng trường Thủ Đức lúc đó là Đại Tá Phan Đình Thứ,
hiệu là Lam Sơn.
Phục
vụ trong Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt
Chia
sẻ với phóng viên nhật báo Người Việt tại Westminster, một thành phố trung tâm
của Little Saigon, nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất hải ngoại, ông Phạm Đức
Cường kể:
“Trước
khi ra trường hai tháng, tôi đã có tên trong danh sách về Binh Chủng Thiết
Giáp. Lúc đó Đại Úy Mã Sanh Nhơn vào quân trường Thủ Đức để tuyển chọn các tân
sĩ quan về Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Đại Úy Nhơn mặc quân phục của Lực Lượng
Đặc Biệt trông rất oai phong đã cho tôi có ý muốn về phục vụ cho binh chủng
này.”
“Tôi
đến chào kính và hỏi Đại Úy Nhơn: ‘Thưa đại úy, tôi đã có tên trong danh sách về
Thiết Giáp, vậy tôi có thể đổi sang đơn vị Thám Sát 77 của Lực Lượng Đặc Biệt
được không? Đại Úy Mã Sanh Nhơn mới trả lời: ‘Việc này thì phải sưu tra về lý lịch
của anh kỹ lưỡng rồi mới trả lời với anh được.’ Đến khi ra trường, thay vì tôi
về Binh Chủng Thiết Giáp thì tôi vẫn được về Lực Lượng Đặc Biệt, theo sự nguyện
vọng của tôi với Đại Úy Nhơn.”
Trước
đó, ngày 15 Tháng Ba, 1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra quyết định thành lập Lực
Lượng Đặc Biệt trên cơ sở của Sở Khai Thác Địa Hình và hai đơn vị tác chiến là
Liên Đoàn Biệt Kích 77 và 31. Về nguyên tắc, Lực Lượng Đặc Biệt thuộc Bộ Quốc
Phòng, có quy mô tương đương cấp lữ đoàn, nhưng trên thực tế, tổng thống có
toàn quyền điều động đơn vị này thông qua một cơ quan chỉ huy trực tiếp là
Phòng Liên Lạc Phủ Tổng Thống, mà thực chất chính là Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc
Biệt, do Đại Tá Lê Quang Tung làm chỉ huy trưởng.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2024/08/CCB-Pham-Duc-Cuong-1-2-1536x1083.jpg
Ông
Phạm Đức Cường (bìa phải) và gia đình trước năm 1975. (Hình: Phạm Đức Cường
cung cấp)
Sau
cuộc đảo chính 1963, Lực Lượng Đặc Biệt nhiều lần tổ chức lại. Phòng 45 đặc
trách các toán Biệt Kích Nhảy Bắc được tách ra. Giữa năm 1965, các Liên Đoàn được
giải tán, cơ cấu chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt được tổ chức theo cơ cấu tương tự
như của Biệt Kích Hoa Kỳ để dễ phối hợp hoạt động. Trong lúc này, các toán Biệt
Kích hoạt động trong nội địa, khác với các toán Biệt Kích Lôi Hổ đang hoạt động
ngoài biên giới trên cả bốn vùng chiến thuật.
Riêng
các Đại Đội Biệt Kích Dù Biệt Lập được kết hợp thành Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù,
vẫn chịu dưới sự chỉ huy của Lực Lượng Đặc Biệt, vẫn giữ vai trò xung kích, ứng
cứu cho các toán Biệt Kích nội địa. Ngoài ra, vai trò hoạt động Biệt Kích Hoa Kỳ
và đồng minh tại Đông Nam Á có thay đổi, do bàn giao giữa CIA và MACV, nhằm phối
hợp các hoạt động biệt kích trên vùng lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Chuẩn
Úy Phạm Đức Cường vào trình diện Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt gần Bộ Tổng Tham
Mưu Quân Lực VNCH. Lúc đó Đại Tá Lê Quang Tung là chỉ huy trưởng của Binh Chủng
Lực Lượng Đặc Biệt.
Sau
đó, ông Cường phải chờ đơn vị cho ông đi thụ huấn khóa Nhảy Dù và khóa học
về ngành Lực Lượng Đặc Biệt, để được chính thức trở thành một quân nhân của
Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt.
“Khi
tôi vào Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt thì tôi chưa có gia đình, vì biết cuộc đời
lính trong binh chủng rất nguy hiểm đến tính mạng. Những chuyến công tác của
chúng tôi thường xuyên xâm nhập vào nơi đóng quân của địch ngoài biên giới tại
miền Nam, và cũng có thể chúng tôi xâm nhập vào lãnh thổ của Bắc Việt. Vì thế,
tôi sợ khi mình tử trận thì tội nghiệp cho vợ con. Lý do đó nên tôi không muốn
lập gia đình sớm,” ông cho biết thêm.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2024/08/CCB-Pham-Duc-Cuong-1-3-1688x2048.jpg
Ông
Phạm Đức Cường và vợ tại California. (Hình: Phạm Đức Cường cung cấp)
Tiểu
Đoàn 91 Biệt Cách Dù và Trung Tâm Hành Quân Delta
Tháng
Sáu, 1965, MACVSOG, cơ quan đặc trách của MACV về hoạt động đặc biệt, đã tổ chức
Trung Tâm Hành Quân Delta, mật danh B52, chịu trách nhiệm phối hợp với Binh Chủng
Lực Lượng Đặc Biệt chỉ huy các hoạt động thám báo và phá hoại. Tiểu Đoàn 91 Biệt
Cách Dù là đơn vị phối hợp làm lực lượng xung kích ứng cứu cho Trung Tâm Hành
Quân Delta.
Lúc
bấy giờ, các toán Biệt Kích Delta hỗn hợp Việt-Mỹ, do các quân nhân Mỹ làm trưởng
toán sẽ xâm nhập vào đường mòn Hồ Chí Minh và các căn cứ do địch quân kiểm soát
trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam để xác định vị trí đóng quân của đối phương,
thu thập tin tức tình báo chiến lược, giám sát kết quả oanh kích của Không Quân
Hoa Kỳ, tập kích, phá hoại các cơ sở hậu cần của địch.
Khi
về đơn vị, Chuẩn Úy Cường cũng đã tham dự nhiều trận chiến, có những trận mang
lại cho quân ta những niềm vui và cũng có những lúc, quân mình cũng thấy rất hụt
hẫng vì đồng đội bị chết quá nhiều.
Ông
Cường nhớ lại: “Năm 1964, lúc đó tôi đang phục vụ tại Liên Đội Biệt Cách Dù gồm
có nhiều đại đội, thì tôi là trung đội trưởng của Trung Đội 2. Liên Đội Biệt
Cách Dù được lệnh đi hành quân xâm nhập vào Chiến Khu D của Việt Cộng. Những
trung đội khác thì được lệnh đi về hướng nào, thì chúng tôi không biết. Nhưng
riêng về bốn trung đội chúng tôi thì xuất phát từ Nhà Bè, lên tàu Hải Quân VNCH
đưa đến vùng hành quân.”
“Ba
giờ sáng thì bốn tàu Hải Quân, loại tàu có cửa phía mũi tàu, mà có người gọi là
‘tàu hả mồm,’ rất tiện cho việc chuyển quân và đổ quân. Bốn chiếc tàu này đưa bốn
trung đội của Biệt Kích đi vào vùng hành quân theo sông Bình Dương. Lúc đó, tôi
là trung đội trưởng Trung Đội 2. Theo đúng kế hoạch hành quân thì Trung Đội 1 sẽ
lên tàu số 1, Trung Đội 2 sẽ lên tàu số 2, Trung Đội 3 sẽ lên tàu số 3, và
Trung Đội 4 sẽ lên tàu số 4. Vì thế, đúng ra trung đội chúng tôi phải lên tàu số
2, nhưng ông Thiếu Úy Hương, thâm niên hơn tôi, mới lệnh cho Trung Đội 2 của
chúng tôi lên tàu số 1. Và Trung Đội 1 của Thiếu Úy Hương lên tàu số 2,” ông nhớ
lại.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2024/08/CCB-Pham-Duc-Cuong-1-4-1536x1081.jpg
Mũ
Xanh Lực Lượng Đặc Biệt Phạm Đức Cường (phải) trong Đại Hội Tình Báo 101 VNCH
năm 2003 tại California. (Hình: Phạm Đức Cường cung cấp)
Theo
ông Cường kể, lúc tàu đang tiến đến khu vực để tìm bãi cho Biệt Kích đổ bộ, vì
ban đêm và sương mù dày đặc nên khó trông thấy bờ cho tàu ủi bãi để các chiến
sĩ đổ bộ lên bờ. Tàu chạy khoảng hai tiếng thì gần đến điểm tàu cho Biệt Kích
lên bờ. Nhưng vì trời còn tối, sương mù dày đặc nên các chiến sĩ Hải Quân khó
nhận dạng để cho tàu chạy vào bãi gần bờ. Thêm vào đó, phần khúc sông này cỏ
lau, sậy mọc đầy dưới bờ sông và rất cao.
Lúc
đó, chiếc tàu số 2 chưa được vào gần bờ mà thủy thủ đoàn tưởng là tàu đã đến gần
bờ sông rồi, nhưng thật ra thì tàu còn cách bờ rất xa. Vì hiểu lầm như thế, nên
lệnh của thuyền trưởng cho ‘hả mồm tàu’ để Trung Đội 1 đổ bộ.
“Thật
là khủng khiếp, khi tàu số 2 vừa cho cửa bửng đầu tàu hạ xuống thì nước tràn
vào rất nhanh, khiến các anh em chiến sĩ của Trung Đội 1, khoảng 30 người, trở
tay không kịp. Lý do là vì mỗi quân nhân đã trang bị súng đạn và lương khô để
đi hành quân bảy ngày, mang tất cả trên mình nên rất nặng, nên tất cả họ đã chết
vì ngộp nước. Chỉ còn thủy thủ đoàn còn sống sót vì họ không mang nặng trên người,”
ông Cường bùi ngùi kể.
Ông
Cường kể tiếp: “Sau đó, ba trung đội còn lại được ủi bãi an toàn, và công việc
đầu tiên là lo tìm kiếm xác của đồng đội mình đã tử thương vì bị ngộp nước. Lúc
đó ba trung đội chúng tôi còn lại không còn tinh thần để chiến đấu một cách
hăng say nữa. Thà rằng anh em chúng tôi chết khi đụng trận với địch quân, thì
cái chết đó là cái chết vinh quang, còn đằng này anh em đồng đội chúng tôi bị
chết chìm dưới nước khi chưa chạm địch, thì cái chết này thật là oan uổng.”
Sau
đó, Đại Tá Lam Sơn, lúc đó ông ta là tư lệnh phó Biệt Khu Thủ Đô, vẫn ra lệnh
cho chúng tôi, và những đại đội khác cũng đang hành quân như chúng tôi ở nhiều
điểm tiến quân khác phải tiến vào Chiến Khu D của địch. Trên đường hành quân
vào Chiến Khu D của địch thì đơn vị chúng tôi cũng đụng vài vụ lẻ tẻ. Nhưng
không bao lâu thì Đại Tá Lam Sơn lệnh cho ba trung đội chúng tôi ngưng hành
quân, và được trở về đơn vị, còn những cánh quân khác thì vẫn tiếp tục tiến vào
Chiến Khu D của địch quân.” (Lâm Hoài Thạch) [qd]
No comments:
Post a Comment