Dự
án kênh đào Funan-Techo sẽ khai trương vào ngày mai
Trương Nhân Tuấn
04/08/2024
https://baotiengdan.com/2024/08/04/du-an-kenh-dao-funan-techo-se-khai-truong-vao-ngay-mai/
HÌNH
: https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/08/1-2.jpeg
Kênh
đào Funan-Techo chuẩn bị khởi công. Ảnh: Bộ Công Thương và Giao Thông Vận Tải
Campuchia
Ngày
mai, 5 tháng 8 năm 2024 Campuchia sẽ chính thức động thổ, khai trương dự án
kinh đào Funan-Techo.
Đây
là một dự án đượm chất “dân tộc chủ nghĩa” với ước mơ phục hưng đế chế Phù Nam,
một đế quốc trực thuộc văn minh Khmer, bao gồm cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL). Con kinh sẽ chảy qua Takeo, thủ phủ của đế chế Phù Nam ngày xưa.
Để
làm gì?
Các
lãnh đạo Khmer nói là để “Campuchia được thở bằng mũi”. Tức là hàng hóa từ Nam
Vang đi thẳng ra biển, không thông qua sông Tiền để lệ thuộc Việt Nam nữa.
Chuyện
này không thuyết phục. Mọi tính toán về kinh tế cho thấy giá cả một tấn hàng
thông kinh Phù Nam sẽ đắt giá hơn khi thông qua sông Tiền.
Theo tôi,
dự án được khai sinh, không phải để đưa dân Khmer thoát khỏi cảnh nghèo đói và
chậm tiến. Các lãnh đạo “dân tộc cực đoan” hiện thời của Campuchia theo tinh thần
“Ỷ Trung bài Việt”, dựa vào Trung Quốc để chống Việt Nam. Đây hiện đang là
phong trào sôi nổi trong nội bộ chính phủ Campuchia.
Tôi
không biết vì sao dân Khmer lại chống Việt Nam? Nhứt là dựa vào Trung Quốc?
Các
lãnh đạo Campuchia lại quên lịch sử. Cách đây không lâu Trung Quốc đỡ đầu cho
Sihanouk và Khmer đỏ. Súng đạn của Khmer đỏ (để giết dân Khmer và chống Việt
Nam) trực tiếp đến từ Trung Quốc. Ghế đại diện của Khmer đỏ tại LHQ là nhờ
Trung Quốc chống lưng. Trực tiếp hay gián tiếp, Trung Quốc có trách nhiệm trong
cuộc diệt chủng bốn triệu dân Campuchia trong khoản thời gian Khmer đỏ cầm quyền
từ năm 1975-1978. Tức là 1/2 dân Khmer tử vong là có phần trách nhiệm của Trung
Quốc.
Nhìn
về lịch sử, ta không thể phủ nhận rằng khi suy tàn, dân tộc Khmer luôn dựa vào
một bên để chống một bên.
Đế
quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, cao điểm là thế kỷ thứ 11. Đế quốc này suy
tàn bắt đầu từ thế kỷ 14. Các đế quốc Xiêm lần lượt mang tên Sukhôthaï, Ayuthia
và Bangkok, đã chinh phục hầu như 80% lãnh thổ đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer
hùng mạnh ngày xưa đã bị đế quốc Thái tiêu diệt gần hết. Dân chúng Khmer sót lại
đã chạy đi tản mát, một số trở thành các bộ lạc nhỏ trong rừng sâu, núi thẳm, số
còn lại lui về lập đô ở Nam Vang.
Hai
phần ba (2/3) diện tích nước Thái Lan hiện nay vốn ngày xưa thuộc về đế quốc
Khmer. Các di tích lịch sử, đền đài của Khmer như Angkor Thom và Angkor Wat,
hoàn toàn xóa bỏ trong ký ức của dân Khmer, bị bỏ hoang phế. Chỉ đến giữa thế kỷ
thứ 19 thì các phế tích này mới được mọi người biết đến.
Nếu
không nhờ Việt Nam, sau đó là Pháp, chống lại ảnh hưởng của Thái Lan thì dân tộc
Khmer đã bị tiêu diệt.
Tại sao
dân Khmer không có tinh thần “bài Thái” hay “bài Trung”, hai đế quốc đã khiến
dân Khmer suýt bị diệt chủng?
Thái
Lan đã chiếm 2/3 lãnh thổ đế chế Khmer nhưng chưa bao giờ dân Khmer lên án dân
Thái cướp đất. Còn bên Việt Nam, đất miền Nam có được một phần là do khai
hoang, tức khai khẩn đất vô chủ. Phần khác do nguyên tắc luật học “uti
possidetis juris”. Không có Việt Nam nào “cướp đất” của Campuchia hết cả.
Dân
Khmer “bài Việt” vì các lãnh tụ Khmer bao đời nay luôn “chính trị hóa” các
tranh chấp đất đai, lãnh thổ. Họ sử dụng tinh thần “bài Việt” để phục vụ lợi
ích chính trị.
Trong
khi nếu không có Việt Nam đem quân giúp Khmer, chống quân Xiêm hay tiêu diệt
Khmer đỏ, thì không chừng những gì còn lại của Campuchia sẽ là các bộ tộc thuở
hồng hoang.
Vụ
đào con kinh Phù Nam dĩ nhiên phía Campuchia đơn phương “gây hại” cho Việt Nam.
Một
số ý kiến chủ quan của tôi về các khía cạnh pháp lý mà phía Campuchia có thể phải
chuẩn bị để đối phó với Việt Nam.
Về
việc gây hại cho Việt Nam
Vấn
đề đặt ra là xác định như thế nào về những nguy hại tất yếu sẽ xảy ra cho Việt
Nam nếu con kinh này được thực hiện?
Chỉ
khi nào Việt Nam có những ước tính về thiệt hại thì Việt Nam mới có thể có những
hành vi tương ứng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Theo tôi biết thì phía
Việt Nam chưa có cuộc nghiên cứu nào cho việc này.
Về
việc phòng ngừa, theo tôi biết thì đến nay Việt Nam đã 4 lần yêu sách phía
Campuchia cung cấp các dữ kiện về dự án kinh đào Phù Nam, đúng như nội dung Hiệp
định Mê Kông 1995 nhưng phía Campuchia vẫn im lặng.
Về
việc sử dụng nguồn nước sông Mê Kông
Theo
tin tức báo chí và theo nội dung các tuyên bố của quan chức Campuchia thì lập
luận của họ là Campuchia không có nghĩa vụ cung cấp thêm dữ kiện cho Việt Nam,
hay cho Ủy hội sông Mê Kông (được thành lập theo Hiệp định Mê Kông 1995). Theo
Campuchia thì sông Basac chỉ là một phụ lưu của sông Mê Kông, do đó không phụ
thuộc vào nội dung Hiệp định Mê Kông 1995.
Theo
tôi, phía Campuchia sử dụng lập luận như vậy vì họ đã thấy các bên như Việt
Nam, Lào, Thái Lan đã xây dựng những con đập trên các phụ lưu của sông Mê Kông
mà các quốc gia này không thông báo, hay nộp các dữ kiện về việc sử dụng nguồn
nước cho các quốc gia khác. Tức là, Campuchia hàm ý cho rằng Việt Nam cũng như
các quốc gia khác đã vi phạm Hiệp định Mê Kông 1995 rồi. Thì bây giờ họ đào
kinh là chỉ làm lại những gì mà Việt Nam đã làm ở các phụ lưu sông Mê Kông mà
thôi.
Theo
tôi thì có lẽ phía Campuchia chưa tham khảo sâu và sát nội dung các phụ lục
đính kèm Hiệp định Mê Kông 1995. Bởi vì sông Basac, cũng như Biển Hồ, thuộc về
“hệ thống sông Mê Kông” như qui định khoản A điều 5 Hiệp định Mê Kông 1995, chớ
không phải là một “phụ lưu” sông Mê Kông. Nhưng điều quan trọng hơn hết là
nguyên tắc “không được gây hại – principle of no harm”. Nếu Việt Nam nhận thấy
rằng khi con kinh này được thực hiện, nguồn nước Mê Kông thay đổi, đồng bằng
sông Cửu Long của Việt Nam bị thiếu nước. Việt Nam có quyền yêu cầu Campuchia
ngừng vĩnh viễn công trình này.
Nếu
Campuchia quyết định đào kinh Phù nam, nối dòng Basac ra biển, sông Basac là một
nhánh trong hệ thống sông Mê Kông, nhưng sông Mê Kông là sông quốc tế. Sông quốc
tế là những con sông biên giới, hay những con sông chảy qua nhiều nước. Việc sử
dụng nguồn nước một con sông quốc tế được điều chỉnh bởi các công ước quốc tế về
việc bảo vệ và sử dụng nguồn nước.
Luật
và tập quán quốc tế liên quan đến việc sử dụng các nguồn nước, hồ nước, những
con sông quốc tế gồm có Công ước Helsinski 1992, Công ước 1997 của LHQ về việc
sử dụng nguồn nước. Công ước về nguồn nước 1997 này tương tự Công ước 1982 về
Biển.
Nguyên
tắc nền tảng của các công ước này là việc “không được gây hại cho quốc gia
khác” (principle of no harm). Tức là, phía Campuchia có thể sử dụng một cách
bình đẳng với các quốc gia khác về nguồn nước sông Mê Kông nhưng Campuchia
không thể lạm dụng nguồn nước để làm thiệt hại quyền và lợi ích cho các quốc
gia khác.
Ngoài
ra Campuchia cùng các quốc gia Việt Nam, Lào và Thái lan đã có ký kết Hiệp định
về hợp tác Phát triển bền vững sông Mê Kông năm 1995.
Mục
đích các quốc gia là “hợp tác trên tinh thần xây dựng và cùng có lợi để phát
triển bền vững, sử dụng, bảo vệ và quản lý tài nguyên nước và các tài nguyên
liên quan của Lưu vực sông Mê Kông”.
Ngoài
ra, nếu con kinh Phù Nam hoàn thành, thì nó sẽ đổ ra cảng Kép. Cảng này nằm
trong “vùng nước lịch sử” giữa Việt Nam và Campuchia. Hiệp ước về vùng nước lịch
sử giữa Việt Nam và Camuchia được ký kết năm 1985. Tức là Việt Nam cũng có thẩm
quyền ngang với Campuchia ở vùng nước này.
Tức
là, mặc dầu Việt Nam và Campuchia không có ký kết hiệp ước nào song phương về
con kinh Phù Nam, nhưng phía Campuchia vẫn bị ràng buộc bởi các điều ước quốc tế,
như Công ước Helsinski 1992, Công ước LHQ về Nước năm 1997 và Hiệp ước Mê Công
1995. Bởi vì hành vi đào kinh đưa nước sông Mê Công qua một hệ thống khác mà việc
này có thể gây thiệt hại cho phía Việt Nam.
Ta
có nhiều án lệ (jurisprudence) của Tòa án quốc tế phân xử các tranh chấp giữa
các quốc gia về việc sử dụng nguồn nước và sông quốc tế. Ta có thể nhắc trường
hợp sông Silala giữa Bolivia và Chile. Sông Danube giữa Tiệp Khắc và Hung v.v…
No comments:
Post a Comment