ĐƯỢC
– MẤT CỦA GIÁO HỘI SAU 33 NĂM CHỦ TRƯƠNG ĐỐI THOẠI VIỆT NAM – VATICAN
Những ngày qua, thông tin Việt Nam và Vatican, về cơ bản, đã đạt được thỏa
thuận theo đó "Hà Nội sẽ cho phép Vatican có một Đại diện Thường trú tại
Việt Nam" làm nức lòng nhiều tín hữu Việt Nam. Thỏa thuận này có thể sẽ được
chính thức công bố nhân chuyến viếng thăm Vatican của ông Chủ tịch nước Võ Văn
Thưởng vào cuối tháng Bảy này, từ ngày 23-28/7/2023.
Tuy nhiên, cần biết rằng, để đạt được thỏa thuận này, Tòa thánh đã phải
kiên trì theo đuổi đường lối "đối thoại" với chính quyền Việt Nam suốt
33 năm qua, chấp nhận chạy theo chính sách ngoại giao "đu dây",
"nhỏ giọt" của nhà cầm quyền Việt Nam, vì lợi ích của đảng Cộng sản
Việt Nam nhiều hơn là của người dân Việt Nam.
NHỮNG CUỘC GẶP CHÍNH
THỨC
Năm 1989, chứng kiến Đông Âu sụp đổ dây chuyền, nhà cầm quyền Hà Nội, sau
một số năm mở cửa về Kinh tế và để tránh sụp đổ, đã nghĩ tới việc tranh thủ sự ủng
hộ của Vatican nên đã chấp thuận mở cửa tiếp phái đoàn Tòa Thánh do Đức Hồng y
Roger Etchégaray – khi đó đang là Chủ tịch Hội đồng Công lý và Hòa bình của Tòa
Thánh, đại diện Tòa Thánh thực hiện chuyến thăm mục vụ tại Việt Nam từ ngày 01
đến ngày 13 tháng Bảy.
Chuyến viếng thăm này được coi là cột mốc đánh dấu, và là khởi đầu cho tiến
trình "đối thoại" tiến tới việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam
và Vatican đã bị cắt đứt từ năm 1975.
Một năm sau đó, ngày 07 tháng 11 năm 1990, Đức Hồng y Etchégaray dẫn đầu
phái đoàn Tòa thánh, gồm Đức ông Claudio Celli, Thứ trưởng Bộ ngoại giao và Đức
ông Barnabé Nguyễn Văn Phương, thuộc Bộ Truyền giáo, đến Việt Nam để
"chính thức làm việc với chính phủ Việt Nam". Với chuyến viếng thăm
chính thức này, hai bên bắt đầu nối lại các tiếp xúc nhằm tiến tới việc thiết lập
quan hệ ngoại giao. Tại cuộc gặp, hai bên đã cùng ký văn kiện thỏa thuận:
“Mọi vấn đề liên quan đến Giáo hội Công giáo Việt Nam, Tòa thánh sẽ thông
báo cho chính phủ và sau khi có sự thỏa thuận của Chính phủ Việt Nam, thì Tòa
thánh mới ra quyết định. Việc này bao gồm các chủ trương của Tòa thánh, việc
phong chức Hồng y, Giám mục, Giám quản Tông tòa và các việc khác hai bên cùng
quan tâm. Khi hai bên có ý kiến khác nhau thì sẽ gặp nhau trực tiếp để bàn bạc."(
Trích trả lời phỏng vấn ông Vũ Quang – trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, trả lời
TTXVN và Báo Đại Đoàn Kết, tháng 3 năm 1994.)
Thỏa thuận bị coi là "vội vã" này đã đặt Vatican vào vị thế
"đã rồi" và phải "chạy theo" chính sách ngoại giao của nhà
cầm quyền Hà Nội suốt 33 năm qua.
Trong thực tế, kể từ cuộc gặp chính thức đầu tiên này, cho tới nay, hai
bên đã tổ chức mười bảy cuộc gặp chính thức (từ năm 1990 đến năm 2009) và mười
cuộc họp của Tổ công tác Hỗn hợp giữa Tòa thánh và Vatican để bàn về việc
"thiết lập quan hệ ngoại giao"; đó là chưa kể các cuộc viếng thăm của
các vị lãnh đạo cao cấp của Tòa Thánh đến Việt Nam vào các dịp lễ lớn của Giáo
hội Việt Nam, như Đức Hồng y Crescenzio Sepe đến thăm Việt Nam và phong chức
cho 57 tân linh mục thuộc Tổng giáo phận Hà Nội (29/11/2005), cuộc viếng thăm của
Đức Hồng y Ivan Dias, Bộ trưởng Bộ loan báo Tin mừng cho các Dân tộc vào dịp
Năm thánh 2010, cuộc thăm viếng của Đức Hồng y Fernando Filoni, Bộ trưởng Bộ
loan báo Tin mừng cho các Dân tộc, từ ngày 20 đến ngày 25 tháng Giêng năm 2015,
hay cuộc viếng thăm của Đức Hồng y Reinhard Marx, Tổng Giám mục Giáo phận
Munich, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức và là một trong tám vị cố vấn cho Đức
thánh cha Phanxicô, từ ngày 8 đến 17 tháng Giêng năm 2016; đổi lại, phía Việt
Nam, cả bốn vị trí lãnh đạo chủ chốt từ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (gặp ngày
23/1/2013), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (ngày 18/10/2014), Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết (ngày 11/12/2009) và Trần Đại Quang (ngày 23/11/2016), Chủ tịch quốc
hội Nguyễn Sinh Hùng (ngày 22/3/2014) đều đã đến Vatican và đã được các Đức
Giáo hoàng đón tiếp trọng thị bằng nghi thức đón tiếp các nguyên thủ quốc gia.
Mặc dù vậy, kết quả của một quá trình dài tốn nhiều công sức "đối
thoại" cũng chỉ là những "thỏa thuận" một cách "nhỏ giọt"
mà quyết định cuối cùng vẫn là chính quyền Việt Nam "cho phép Tòa
thánh" mới được phép cử đại diện của Tòa Thánh đến Việt Nam.
TỪ ĐẠI DIỆN TÒA THÁNH
KHÔNG THƯỜNG TRÚ ĐẾN THƯỜNG TRÚ
Thực tế, phải sau 17 cuộc gặp chính thức kéo dài từ năm 1990 đến năm
2009, sau hai lần làm việc chung của Tổ Công tác Hỗn hợp giữa Việt Nam –
Vatican và sau chuyến viếng thăm Vatican của ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước
ngày 11/12/2009, đặc biệt là sau những phản kháng dữ dội của Giáo dân Tổng giáo
phận Hà Nội trong vụ Tòa khâm sứ - giáo xứ Thái Hà, hai bên mới bước đầu đi tới
thỏa thuận "Vatican được phép cử Đại diện" nhưng không Thường trú tại
Việt Nam.
Ngày 13 tháng 01 năm 2011, Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI đã bổ nhiệm Đức Tổng
Giám mục Leopoldo Girelli - Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore, Malaysia, Brunei
kiêm chức Đặc phái viên không thường trú cho Tòa thánh tại Việt Nam.
Như vậy, phải mất 20 năm "đối thoại" và phải
trả nhiều giá đắt, kể cả việc loại bỏ Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt (ngày
13/5/2010) ra khỏi chức vụ Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội, Tòa thánh mới
được phép "cử Đại diện" nhưng không được thường trú tại Việt Nam và
phải mất thêm 13 năm để nâng cấp "mối quan hệ ngoại giao" giữa Tòa
Thánh và Việt Nam từ cấp độ "Đại diện không thường trú" thành
"Thường trú", với điều kiện "Tòa Thánh không được đòi lại Tòa
Khâm sứ" mà phải chuyển Văn phòng Đại diện đi nơi khác. Ngoài ra, nhà cầm
quyền Việt Nam phải được duyệt quy chế hoạt động của Văn Phòng Đại diện của Tòa
Thánh.
ĐƯỢC – MẤT CỦA GIÁO HỘI
SAU 33 NĂM ĐỐI THOẠI
Dĩ nhiên, không thể đánh giá một sự kiện kéo dài ba mươi ba năm và luôn
"bí ẩn" chỉ trong một bài viết ngắn.
Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy và là điểm mấu chốt, đó là để "được
phép cử một Đại diện Tòa Thánh thường trú tại Việt Nam" Giáo hội đã phải
trả giá rất nhiều, đặc biệt phải hy sinh đặc quyền bổ nhiệm các giám mục được
qui định tại Điều 377, khoản 5, trong Bộ giáo luật, qui định: “Từ nay về sau,
không được cho chính quyền dân sự quyền lợi và đặc ân bầu cử, bổ nhiệm, đề cử
hoặc chỉ định các Giám mục”.
Theo đó, với “Giáo luật hiện hành, việc bổ nhiệm giám mục được thực hiện
theo tiến trình thông thường sau đây: Khi có nhu cầu, vị Hồng y hoặc Giám mục
giáo phận sẽ gửi lên Tòa Thánh Vatican một danh sách gồm ba ứng viên được coi
là xứng đáng nhất để đảm nhận chức vụ này. Các cơ quan hữu trách của Tòa Thánh
sẽ sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau để thẩm định về mỗi ứng viên. Tất cả
tiến trình tham khảo và “điều tra” này hoàn toàn được bảo mật. Nếu không chấp
nhận cả ba ứng viên được đề cử này thì Tòa Thánh sẽ trả hồ sơ về cho giáo phận.
Nếu tìm được ứng viên thích hợp, Tòa Thánh sẽ thông báo danh tánh người được chọn
cho giáo phận và yêu cầu bản quyền thông báo quyết định của Tòa Thánh cho người
được đề cử, đồng thời yêu cầu vị này cho biết ý kiến. Nếu ứng viên trả lời chấp
thuận, Tòa Thánh sẽ tiến hành thủ tục cần thiết để Đức Thánh Cha chính thức ký
tự sắc bổ nhiệm. Tòa Thánh cũng quy định ngày công bố bổ nhiệm thư, đồng thời
báo cho giáo phận và tiến chức biết ngày đó. Tại Việt Nam, tiến trình bổ nhiệm
phức tạp và rắc rối hơn. Sau khi tìm được ứng viên thích hợp, Tòa Thánh sẽ
thông báo danh tánh ứng viên này cho Nhà nước để tham khảo ý kiến. Theo thỏa
thuận hiện nay, Nhà nước phải cho biết ý kiến trong khoảng thời gian mà hai bên
đã qui định. Trên thực tế, có những trường hợp Nhà nước trả lời nhanh chóng khoảng
vài ba tháng; có những trường hợp khác đã triển hạn nhiều lần và cũng có những
trường hợp Nhà nước không chấp thuận người được tiến cử. Sau khi nhận được trả
lời đồng thuận của Nhà nước, Tòa Thánh mới thông báo cho giáo phận và tiếp tục
những thủ tục cần thiết khác. Khi báo tin cho giáo phận về ngày công bố bổ nhiệm
thư thì Tòa Thánh cũng báo tin cho một vài cơ quan Nhà nước.” (Đức Giám mục
Phaolô Nguyễn Thái Hợp, trả lời phỏng vấn trang Web HĐGM Việt Nam, ngày
28/6/2010 (x. http://hdgmvietnam.org/tan-giam-muc-Phaolô-nguyen-thai-hop-tra-loi-phong-van-cua-trang-tin-dien-tu-hoi-dong-giam-muc-viet-nam-whd/1932.63.8.aspx).
Nói một cách ngắn gọn, với thỏa thuận này, thì “Nhà nước không có quyền đề
cử một giám mục, nhưng họ có quyền từ chối một vụ bổ nhiệm.”
Trong thực tế, với việc hy sinh đặc quyền bổ nhiệm Giám mục, Giáo hội đã
cho phép nhà cầm quyền cộng sản xen vào công việc nội bộ, nhất là nắm quyền chủ
động trong công việc quan yếu nhất là chọn người lãnh đạo Giáo hội, điều đó
không chỉ làm cho Giáo hội bị động, dễ bị kiểm soát, làm mất đi những năng động
thừa sai, mà còn chấp nhận đánh đổi thứ quyền thiêng liêng nhất của con người
là quyền tự do tôn giáo để đổi lấy một "tình hữu nghị viển vông".
Việc "Tòa thánh được phép cử một vị Đại diện Thường trú" xét về
phương diện ngoại giao, hai bên mới chỉ đạt được thỏa thuận ở cấp độ nhỏ nhất,
theo đó, vị Đại diện Thường trú chỉ có vai trò liên lạc giữa Tòa Thánh và nước
sở tại về phương diện phụng tự.
Nói cách khác, tiến trình bang giao Vatican – Việt
Nam vẫn chưa có gì. Bao lâu, Tòa Thánh chưa có vị Sứ Thần Tòa Thánh (đại sứ Tòa
thánh) tại Việt Nam, thì tiếng trình bang giao vẫn chưa xong. Trong khi, với
chính sách ngoại giao "đu giây", "nhỏ giọt" như hiện nay,
có lẽ, Tòa thánh sẽ còn phải "mất nhiều", và không biết tới bao giờ
hai bên mới có thể "thiết lập quan hệ ngoại giao" trong khi điều quan
trọng nhất, là quyền tự do tôn giáo thì Tòa Thánh đã chính thức chối từ.
Nhìn tổng thể, trong suốt 33 năm Tòa Thánh chủ trương hy sinh các đặc quyền
để "đối thoại", với mong ước thiết lập bang giao Việt – Vatican, thì
có vẻ như, chỉ có Vatican mong, còn Việt Nam chưa bao giờ muốn, trừ khi Trung cộng
bật đèn xanh!
20/7/2023
Lm. Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R.
HÌNH :
https://www.facebook.com/photo?fbid=2946607878806145&set=pcb.2946610528805880
https://www.facebook.com/photo?fbid=2946607898806143&set=pcb.2946610528805880
https://www.facebook.com/photo?fbid=2946607892139477&set=pcb.2946610528805880
https://www.facebook.com/photo?fbid=2946607882139478&set=pcb.2946610528805880
.
No comments:
Post a Comment