Qua Thiên Sơn đi trên đường Tơ Lụa
Nguyễn Công Khanh - Saigon Nhỏ
8 tháng 7, 2023
https://saigonnhonews.com/doi-song/di-dong-den-tay/qua-thien-son-di-tren-duong-to-lua/
“Qua Thiên Sơn kìa ai chén rượu vừa tàn…”
– Đó là một câu trong Hòn Vọng Phu, bản
trường ca bất hủ của nhạc sĩ Lê Thương, gồm ba bài sáng tác
từ năm 1943 đến 1947 – một trong những trường ca đầu tiên
của nền tân nhạc Việt Nam.
Lê Thương đã nghiền ngẫm đề tài người chinh phu từ lâu trước khi sáng
tác. Theo một số tài liệu, nhạc sĩ đọc thuộc “Chinh Phụ Ngâm”, cả
nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản dịch chữ
Nôm của Đoàn Thị Điểm. Ngoài ra, Lê Thương đã bắt gặp nhiều hình tượng
người chinh phụ ngoài đời thực. Nàng Tô Thị bồng con chờ chồng đến nỗi
hóa thành đá ở Lạng Sơn, người chinh phụ trên núi Đá Bia, ở Phú
Yên, phía đông đèo Cả, thậm chí là cả Vọng Phu Thạch ở Trung
Quốc khi ông vượt qua biên giới Việt Trung. Tất cả những hình tượng này đều
khiến Lê Thương đưa ra một chiêm nghiệm: Dù ở phương trời nào, chiến
tranh luôn gây ra nỗi đau đè nặng lên người phụ nữ. Cảm
xúc đó đã khiến nhạc sĩ xúc động sâu sắc để viết bộ ba bài hát Hòn
Vọng Phu.
Đoàn Thị Điểm đã viết trong đoạn mở đầu
Chinh Phụ Ngâm:
“Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh”
Tất cả những cảnh bi hùng trong Chinh Phụ Ngâm đều đã ẩn hiện
trong trường ca Hòn Vọng Phu của Lê Thương:
“Lệnh vua hành quân trống kêu dồn,
Quan với quân lên đường,
Đoàn ngựa xe cuối cùng,
Vừa đuổi theo lối sông.
Phía cách quan xa trường,
Quan với quân lên đường,
Hàng cờ theo trống dồn
Ngoài sườn non cuối thôn,
Phất phơ ngập trời bay.
Qua Thiên Sơn kìa ai chén rượu vừa
tàn,
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn.
Người đi ngoài vạn lý quan san,
Người đứng chờ trong bóng cô đơn.
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng
Người không rời khỏi kiếp gian nan
Người biến thành tượng đá ôm con”
Người chinh phu của Lê Thương xuất phát từ một miền nào đó trên
đất Tàu, lội bộ hay cưỡi ngựa hàng ngàn dặm qua Man Khê, Tiêu
Tương đến Tân Cương sát chân rặng Thiên Sơn, phía bên
kia là vùng Trung Á. Sau bao nhiêu năm chinh chiến, chàng rong ngựa, lội
bộ trở về, chàng không về trên đất Tàu mà lại xuôi Nam, về Việt Nam.
Chặng đường thiên lý qua Vạn Xuyên, Cổ Lũy, đò Vạn Lý, đò Ải
Quan, Cổ Loa, Vạn Kiếp… để về với nàng:
“Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san
Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan tiễn đưa bóng chàng
Đường về nước chập chùng xa
Nhiều đồi núi cheo leo
Cây với rừng rườm rà
Đường Vạn Xuyên, đuờng Cổ Lũy
Duyên núi sông vẫn như thắm nhòa
Đò Vạn lý, đò Ải quan,
Đò rừng lá nước trong bao cá lội từng đàn
Thành Cổ Loa, Đền Vạn Kiếp,
Bao tháng năm vẫn chưa xóa nhòa”.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/07/vicky-t-j2EofierHMM-unsplash-1280x720.jpg
Minh họa: Vicky-unsplash
húng tôi cũng đã đến rặng Thiên Sơn, như chàng chinh phu của Lê
Thương nhưng ở phía bên này của miền Trung Á, xứ Kyrgyzstan. Không vất
vả cưỡi ngựa hay lội bộ hàng năm trời, nhưng phải chuyển ba chuyến
bay và mất gần 30 giờ. Từ Seattle, một thành phố ven biển Thái Bình
Dương, phía Bắc nước Mỹ, chúng tôi bay qua New York, theo ngả Thổ Nhĩ
Kỳ, chờ ở Istanbul khá lâu để bay tiếp đến thủ đô Bishkek của
Kyrgyzstan. Còn một ngả khác là bay qua Moscow.
Kyrgyzstan phía
Đông ngăn với nước Tàu bởi rặng Thiên Sơn đầy hiểm trở, các mặt khác
giáp với một số quốc gia mà tên đều có vần cuối là “stan”,
có nghĩa là “đất”: Kazakhstan, Uzbekistan, Tajikistan,
Turkmenistan. Có người nghe thấy tiếng “an” trùng âm với “ant”
và gọi đùa đây là một ổ kiến, nhưng đây là một ổ kiến hiền. Khác
với mấy con kiến lửa ở phía Nam là Afghanistan, Pakistan,
Taliban và Iran…
Kyrgyzstan thuở xưa là trung tâm trao đổi của Con Đường
Tơ Lụa. Con đường này là một mạng không những chỉ về thương
mại nối giữa Đông và Tây mà cũng là trung tâm giao lưu về kinh tế,
chính trị và tôn giáo giữa hai vùng từ thế kỷ thứ hai trước Thiên
Chúa cho tới thế kỷ thứ 18. Đường này nối vùng Đông Á, Đông Nam Á
với vùng Nam Á, Ba Tư, bán đảo Ả Rập, Đông Phi Châu và Nam Âu Châu.
Khởi đầu, nhà Hán bên Tầu kéo dài Con Đường Tơ Lụa về phía Tây
từ năm 207 BC, họ cử tướng Trương Khiên (Zhang Qian) mang binh đoàn đi
chinh phục thêm đất đai, bảo vệ hàng hóa, cũng như xây nối dài thêm
Vạn Lý Trường Thành để bảo vệ con đường này và sự di chuyển hàng
hóa. Con Đường Tơ Lụa còn đóng một vai trò đáng kể trong sự ảnh
hưởng khai hóa nền văn minh của các nước Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật
Bản, Ấn Độ, Iran, Âu Châu, Horn of Africa và Ả Rập. Tuy rằng Lụa là
phẩm vật chính xuất cảng từ Tàu, nhưng còn có nhiều hàng hóa khác
cũng như các nền văn minh được trao đổi, hay hòa đồng tôn giáo, tư
tưởng, triết lý, khoa học và kỹ thuật như chế tạo giấy, thuốc súng…
Marco Polo cũng từng đi trên con đường này. Cuốn “Il Milione”
(The Million) của ông, được dịch sang Anh ngữ với tựa “Travels of Marco
Polo”, là một cuốn sách kinh điển về du lịch. Cũng không thể nào
không nhắc đến cuộc xâm lăng và tàn sát của quân Mông Cổ tại vùng
Trung Á: “Vó ngựa của Mông Cổ đi đến đâu là cỏ không thể mọc
được.” Năm 1220, Thành Cát Tư Hãn đem quân vượt Thiên Sơn, đánh bại đế
quốc Khwarazmian; sau đó, tiến sâu vào Đông Âu sát tới Hắc Hải,
và cả Âu Châu. Cuộc trường chinh của Thành Cát Tư Hãn gây bão táp và sự
tàn bạo của đạo quân Mông Cổ hung mãnh chấm dứt hai mươi năm sau, năm 1240.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/07/oziel-gomez-qLchd-tax_g-unsplash-1280x853.jpg
Một góc rặng Thiên Sơn (ảnh: oziel-gomez-unsplash)
hắc sẽ có một câu hỏi đến với chúng tôi, cớ sao lại tìm một
chỗ xa xôi oái oăm như thế để đến. Chúng tôi có cô con gái út,
nếu ngồi tính lại sau khi ra trường thì cô ấy gần như luôn sống ở
ngoài nước Mỹ – một năm ở Tây Ban Nha, hai năm ở Đức, ba năm ở
Argentina lấy bằng MA về bang giao quốc tế; rồi cô lập gia đình, chồng là anh bạn
Umar Shavorov (người Kyrgyzstan) – trước kia họ học cùng lớp tại trường đại học
ở Buneos Aires và sau này gặp lại nhau lúc cùng làm cho World Bank tại
Washington DC.
Đám cưới được tổ chức tại hai địa điểm. Tại Sài Gòn, trên con thuyền rồng
sơn mầu vàng đi từ bến Bạch Đằng tới Bình Quới. Hai cô cậu trong y phục Việt
Nam truyền thống. Ngoài sự tham dự của họ hàng và thân quyến chúng tôi ở quê
nhà, bà mẹ chồng và các em chú rể đến từ Kyrgyzstan, cũng mặc áo dài Việt Nam
và lần đầu nếm các món ăn Việt. Trở lại Seattle, một bữa tiệc cưới nữa
cũng được tổ chức, với đông đảo bạn bè thân thuộc.
Sau đó, họ ở lại Mỹ một năm để anh chồng lấy nốt bằng MA Quản Trị
Công Quyền tại Harvard và thêm một năm ở với chúng tôi để nhờ vợ chồng tôi
giúp chăm sóc hai đứa con sinh đôi – một trai một gái. Khi hai đứa nhỏ biết đi,
hai vợ chồng lại nhận việc ở Bogota, Columbia và lưu lại đó một nhiệm kỳ ba
năm. Sau đó, cô theo chồng về Kyrgyzstan, với ý định giúp chồng phục
vụ quê hương, mong theo kịp thế giới bên ngoài. Tôi thầm nghĩ, những nước mà tiền
thân là Cộng Sản thì khó lòng chấp nhận người có bằng cấp Âu Mỹ vào những chức
vụ cao để tài năng được hữu dụng…
Chuyến bay của chúng tôi từ Istanbul đến Bishkek, thủ đô
Kyrgyzstan, hạ cánh trong buổi sáng. Vợ chồng con gái tôi đến đón và
đưa thẳng đến một tiệm phở, chắc là sợ chúng tôi đói và không quen
món ăn bản xứ. Đây là tiệm mới mở, có thể nói là độc nhất tại xứ
này. Tiệm có tên là Phở Hanoi, chủ quán là còn trẻ, nói tiếng Nga
thông thạo. Chúng tôi xem thực đơn, có nhiều món và tôi gọi một tô phở
mà anh ta khoe là đúng phở Hà Nội.
Anh chủ tiệm cho biết anh sanh ở Bắc Ninh, còn tôi ở Hà Nội. Chúng
tôi cùng nói về quê hương. Anh đã ở Nga nhiều năm, và đi khắp nơi, mang
tiền để dành về Việt Nam hai lần làm ăn đều thất bại, rồi lại ra
đi. Anh nói, người Việt tập trung ở đây, có khoảng 30 người. Tôi hỏi
thăm về gia đình, anh nói chỉ mang theo một đứa con trai sáu tuổi. Tôi
nghe như có một cái gì đổ vỡ. Thì ra bên cạnh bát phở ở một góc
trời, còn biết bao nhiêu là tình tự quê hương của những người tha
hương, và những cảnh đời như những cánh chim viễn xứ bạt ngàn…
Chúng tôi ở lại thủ đô Bishkek hai tuần. Từ đó, dùng xe và
máy bay đi thăm một số vùng khác. Bishkek là một thành phố được
thiết kế và xây dựng lại bởi người Nga trong thế kỷ thứ 19. Đại lộ
và đường phố rộng rãi xây theo mẫu ô vuông, vỉa hè khang trang, cây
lớn được trồng hai bên đường xanh mát, không có nhiều cao ốc, trông giống
như một thành phố cổ bên Âu Châu. Các trục giao thông cũng thoải
mái, không ồn ào, không thấy có xe gắn máy. Ngoài các quán ăn địa
phương, những nhà hàng và quán cà phê chúng tôi đến đều có tiêu chuẩn Âu Châu.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/07/irene-strong-ITB-8j8ozGc-unsplash-1280x1600.jpg
Một góc Bishkek (ảnh: irene-strong-unsplash)
Dù là quốc gia theo Hồi Giáo nhưng y phục nam nữ của họ theo Âu
Tây, ít màu sắc, không che mặt hay vải phủ che kín từ đầu xuống chân.
Không thấy ai trải khăn phủ phục lễ mỗi ngày mà ta thường thấy ở những quốc gia
Hồi Giáo khác. Tôi cũng không nhìn thấy nhiều nhà thờ Hồi Giáo mà thấy có các
nhà thờ đạo Orthodox. Y phục cổ truyền đặc biệt của họ với nhiều mầu sắc, may cầu
kỳ, chỉ được sử dụng trong các buổi trình diễn có ý nghĩa biểu tượng của một thời
cổ xa xưa…
Lần đầu, chúng tôi lái xe ra khỏi thành phố, lên phía Bắc, sát với biên
giới với Kazakhstan, một quốc gia lớn có nhiều tài nguyên. Xe chạy qua những
vùng mênh mông toàn đồi đá xen với cỏ xanh, ít thấy làng mạc. Thỉnh thoảng
xe phải dừng lại để tránh mấy con sơn dương, lông dài quắn lại, đứng bên đường
yên lặng ngắm chúng tôi.
Có lúc phải tránh những đàn bò, đàn ngựa mà người đi chăn thường cưỡi ngựa
như cao bồi Mỹ. Đi qua một đường dây cáp trượt tuyết trong mùa hè đến một khu rừng,
cây xanh cổ thụ cô lập, được thiết kế thành một resort lớn khá đặc biệt. Du
khách ngụ trong các lều du mục tân trang, tiện nghi đầy đủ, trên các đồi cao
nhìn xuống thung lũng chạy dài phía dưới. Thức ăn của họ khá ngon, có hương vị
đặc biệt và được trình bày mỹ thuật.
Lần thứ hai chúng tôi lái xe dọc phía Nam hồ, hướng về rặng Thiên Sơn.
Issyk Kul là một hồ nước mặn, chiều dài 182 km trải từ Tây sang Đông,
chiều ngang rộng tới 61 km, chiều sâu có chỗ tới 702 m, nước trong, có
thể nhìn xuống sâu tới 20m. Đứng bên này hồ không nhìn thấy bờ bên kia.
Không thấy thuyền bè qua lại, cũng không thấy bè nuôi cá. Nếu đặt vào
lòng hồ này, hòn đảo Phú Quốc lớn nhất của Việt Nam sẽ nằm thọt
lỏn. Lần này chúng tôi được ở trong các lều du mục Yurt thật sự bằng khung gỗ
và bao quanh bằng vải. Bên trong giường ngủ, chăn màn, cách trang trí thêu dệt
giống hệt như thời du mục của “Con Đường Tơ Lụa” thuở xưa.
Buổi ăn tối, ngồi trên thảm, lưng dựa vào những chiếc gối thêu xem họ
trình diễn ca nhạc và các điệu múa trong một căn lều khổng lồ có thể chứa hơn
trăm người. Lần đầu tiên, chúng tôi gặp một đoàn du khách Pháp. Sáng hôm sau,
chúng tôi tới một cánh đồng rộng, tập bắn cung, được nâng một chú đại bàng nặng
trĩu tay và tung nó lên trời để rượt bắt con thỏ giả được kéo chạy ngoài xa.
Lần cuối, chúng tôi lấy máy bay xuống Osh, một thành phố lớn thứ nhì, với
dân số 243,300 và là quê của con rể chúng tôi. Giờ bay chỉ gần một giờ, nếu lái
xe cần một ngày đường vì phải vượt qua một rặng núi ngăn hai miền Bắc-Nam. Con
rể tôi nói, đường đi quanh co nhưng trên các đỉnh cao ngắm toàn cảnh rất hùng
vĩ.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/07/Picture1-1.jpg
Vợ chồng tác giả với khu lều Yurt tân trang (ảnh tác
giả gửi)
Khác với Bishkeh, thành phố Osh còn giữ nhiều nét của một thời Con
Đường Tơ Lụa xưa. Nhiều khu đường phố rộng không thẳng đường và không
có vỉa hè. Đặc biệt nhất khu chợ trời còn sót lại, rất rộng, gồm nhiều mẫu đất.
Trên đó, gồm những căn lều lớn phủ bạt, có những khu gian hàng dựng bằng vật liệu
nhẹ, hình như lúc nào cũng thấy họ sửa sang chắp vá lại. Họ bày bán đủ thứ thượng
vàng hạ cám, từ các đồ dùng nhỏ nhặt gia dụng, trong nhà, giầy dép quần áo, đồ
chơi, hàng nhựa cho tới nữ trang bằng vàng thật.
Đặc biệt có hai khu – khu bán hương liệu, hoa quả thực phẩm khô để dễ
dàng mang theo cho những cuộc hành trình xa; và khu thợ rèn, có nhiều tiệm, tiếng
búa đập trên đe chói chang vang cả một vùng. Nghề thủ công này tôi từng thấy ở
những làng quê Bắc Việt hồi thập niên 1940. Nhìn những thân hình mồ hôi bóng nhẫy,
bắp thịt nổi cuồn cuộn giơ cao búa, nện liên tiếp xuống mảnh thép đỏ rực đang
được rèn thành một vật dụng, tôi tưởng cảnh tượng này như đã biến mất trên Trái
đất từ lâu rồi. Có một điều khác biệt ở đây là, thay vì có một người kéo bễ để
thổi lửa thì họ dùng bình khí đốt.
Tôi có để ý đến những thứ họ sản xuất ra, vẫn là những vật dụng cổ truyền
cá nhân của nghề nông như liềm, cào, dao rừng… hay những thứ gia dụng bằng kim
khí. Còn có những thứ khác mà tôi không hình dung được để dùng làm gì. Tôi nghĩ
nghề thợ rèn này còn tồn tại từ những thế kỷ của Con Đường Tơ Lụa,
từ thời những cuộc hành trình hàng ngàn dặm thồ hàng trên lưng ngựa hay lưng lạc
đà. Chắc chắn xã hội ngày nay ở đây vẫn còn cần đến, cho những nhu cầu riêng biệt,
những thứ mà thế giới tiến bộ dập khuôn sản xuất hàng triệu vật như nhau không
thích hợp với họ.
Hôm sau Umar chở chúng tôi thăm làng quê, nơi còn người bà nội và các chú
bác anh em. Chúng tôi lái xe qua những vùng ruộng đồng mênh mông, không bị phân
chia nhỏ, chắc chịu ảnh hưởng của thời hợp tác xã tập thể. Xe chạy trên một
xa lộ dài khá tốt, quang đãng an toàn, đây là con đường vòng đai của Trung Cộng
làm, con đường Tơ Lụa Mới. Xe dừng nghỉ và đổ xăng tại một “rest area” khá lớn,
gồm một nhà hàng gần trăm bàn, trần cao trang trí hợp thời.
Thức ăn nóng, bánh trái hoa quả tự chọn trong các quầy kính dài tiêu chuẩn.
Bên cạnh là những tiệm bán hàng lưu niệm. Các phòng vệ sinh được trông nom sạch
sẽ thường xuyên. Trung Cộng còn làm một đường xe lửa dài hơn 400km, nhưng chúng
tôi không có dịp đi thăm. Kyrgyzstan cũng như nhiều quốc gia khác đã mắc vào
cái bẫy nợ không biết bao giờ mới trả xong. Trong thời đại dịch, kinh tế khó
khăn khiến nước này đã phải xin khất nợ. Riêng Nga thì đã có lần xóa hết nợ cho
Kyrgyzstan.
Gọi là làng, vì đất rộng nên nhà này cách nhà kia khá xa, không xây chen
chúc sát nhau. Nhà được xây bằng gạch rộng rãi khang trang, trần cao, thềm nhà
có bậc, tường dày, cửa kính, mái nhiều lớp để chống cái rét trong mùa tuyết lạnh.
Nhiều gia đình sống tam đại đồng đường, có xe hơi để di chuyển.
Tôi có cảm tưởng họ sống gần như tự túc, có vườn trồng rau, cây trái. Nước
dùng cho gia đình và tưới rau được dẫn bằng một đường ống cao su từ các con suối,
chảy thường xuyên tràn trên sân gạch ra vườn, không cần bể chứa. Nhà nào cũng
có một dẫy chuồng nuôi súc vật dê, cừu… và cỏ khô chất đống để nuôi gia
súc trong mùa đông. Có nhà lại làm nhiều tổ nuôi ong lấy mật trong vườn.
Họ hàng của Umar khá đông ở Osh, nhà cửa trang trại khang trang, có ông
chú là biện lý, hai vợ chồng người em là hai bác sĩ chuyên khoa… Họ rất ân cần,
hiếu khách, từng gia đình thay nhau tiếp chúng tôi nồng hậu. Bữa tiệc nào cũng
thấy đầy đủ họ hàng con cháu trong nhà, theo cách truyền thống, thức ăn thịnh
soạn bày đầy trên một bục rộng có trải thảm chiếm gần hết căn phòng, mọi người
ngồi quanh, có những chiếc gối thêu lớn dùng để ngồi hay để dựa vào tường.
Những căn lều trên thảo nguyên – hình ảnh thường thấy
khắp Kyrgyzstan (ảnh: dastan-suiuntbekov-unsplash)
Tôi có dịp đi quanh nhà, thăm khu vườn rộng như một trang trại nhỏ. Theo
dọc một con đường đá nhỏ, hàng rào cây hai bên nở đầy hoa. Cảnh quá thanh bình,
bao nhiêu năm chiến tranh không đến với họ. Tự nhiên tôi nhớ đến cái tình tự
quê hương của một thời xa xôi lắm, cũng có thanh bình, có khu vườn trồng cải
vàng với bướm trắng, có hàng rào hoa dại, có đường vào xóm giếng ngày xưa vắng
lặng… Tôi trèo lên một sườn đồi cao lúc nào không biết, nhìn xuống dưới, một
con suối lớn nước chảy ào ào, vỗ vào các tảng đá giữa dòng tung bọt trắng xóa.
Tôi lại nhớ đến những giấc mộng lãng mạn ngày còn trẻ.
Nhớ bài hát Suối Mơ của Văn Cao:
“Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối,
Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát,
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi”
Nhớ bài thơ Cô Hái Mơ của Nguyễn Bính:
“Nhà tôi ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường.
Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương”…
Trước khi rời làng, tôi nói đùa với một ông chú của Umar là tôi muốn ở
lại đây, có một căn nhà xây bên dòng suối, ông ta bèn nói với tôi ngay
không suy nghĩ: “Ông cứ chỉ cho tôi bất cứ chỗ nào đất còn trống,
chúng tôi sẽ giúp ông dựng căn nhà như ý của ông”. Chuyện đùa
nhưng nghe quá dễ dàng thành sự thật. Tôi nhớ có hẹn anh chủ tiệm
Phở Hà Nội quay trở lại nhưng chúng tôi không còn đủ thời giờ vì sau đó
vợ chồng cô con gái lại đưa đi thăm các vùng xa. Xin để lại lời chào và
mong có ngày gặp lại.
*****
Trong lòng tôi lúc nào cũng muốn quay lại thăm lại rặng Thiên Sơn
quanh năm phủ tuyết, những vùng thảo nguyên mênh mông, những đồi cỏ chập
chùng lượn sóng, cảnh những đàn ngựa thả hoang in hình trên những ngọn
đồi cỏ, và những đêm ngủ trong các lều du mục… của một vùng đất còn dấu
nguyên thủy, như những viên đá quý còn giấu kín chưa tìm thấy.
Nhiều lúc tôi tự hỏi, ngoài các chỉ số mà các nước vất vả cố
nâng cao lợi tức đầu người, sản lượng quốc gia và đạt được những
cái đích phát triển khiến cuối cùng đưa đến kết quả là tạo ra một xã hội
tranh đua đến độ thiếu nhân bản và đạo đức, chắc là còn phải tìm đặt
ra những chỉ số hạnh phúc căn bản cho nhân loại mà chúng tôi vừa sống ít
ngày với những người của thời Tơ Lụa, trong một vùng thảo
nguyên mênh mông, an bình với những giấc mơ xưa…
No comments:
Post a Comment