Điểm
sách: Nhật Bản và Việt Nam là đồng minh tự nhiên (Phần 1)
Nguyễn Đình Cống
22/07/2023
https://baotiengdan.com/2023/07/22/diem-sach-nhat-ban-va-viet-nam-la-dong-minh-tu-nhien-phan-1/
Sách: “Nhật Bản và Việt Nam là đồng minh tự nhiên”, của tác
giả Umeda Kunio, viết xong vào tháng 5 năm 2021, Nguyễn
Thị Lan Hương dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt, do nhà
xuất bản Thế giới ấn hành năm 2023.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2023/07/1-49.jpg
Ảnh bìa sách.
Tác giả Umeda Kunio (TG) người Nhật, sinh năm 1954, là một nhà ngoại giao
có hoạt động rộng ở nhiều nước, làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Việt nam từ
năm 2016 đến 2020. Sách viết về những tình cảm, việc làm của Chính phủ và nhân
dân Nhật Bản, cũng như của tác giả đối với Việt Nam. Đó là những
tình cảm và việc làm tốt đep, có hiệu quả phát triển kinh tế trong thời gian
vài chục năm vừa qua.
Mục lục sách gồm: Lời nhà xuất bản, Lời giới thiệu, Lời tác giả, Lời nói
đầu và nội dung gồm 7 chương. Mỗi chương chia thành các mục, từ 1 đến 21, đánh
số liên tục qua các chương.
Khi đọc sách, tôi có vài nhận xét, có tán thành và có phản biện vì chưa
nhất trí với một vài ý kiến. Tôi xin trình bày theo từng mục, từ đầu đến cuối.
Những mục không có nhận xét gì thì được bỏ qua. Những điều tán thành là hay,
đúng, thể hiện tấm lòng ưu ái của TG, của chính phủ và nhân dân Nhật Bản đối với
VN và rất nhiều, tôi không kể ra hết vì sẽ làm cho bài viết khá dài. Tôi chỉ dẫn
ra vài việc có ý nghĩa và tập trung chủ yếu vào một số điều chưa nhất trí với
TG.
Viết bài này tôi có ý định thử lý giải ý sau của Nhà Xuất Bản: “Xuất
phát từ sự kính trọng dành cho TG…, Nhà xuất bản đã ấn hành bản dịch… Điều này
không có nghĩa là NXB chia sẻ hoàn toàn các quan điểm, nhận xét – thậm chí là
phán xét – hay cảm nhận mang tính chủ quan của TG khi tiếp cận một vấn đề nào
đó”.
Không chia sẻ hoàn toàn nghĩa là có ý kiến được tán thành, có ý kiến
không đồng ý. Tôi không biết ý kiến của NXB như thế nào, chỉ trình bày ý kiến
cá nhân, may ra có vài ý trùng nhau.
Trong lời tác giả, Kunio viết: “Tôi tin tưởng rằng VN trở thành một quốc
gia hùng cường hơn, thịnh vượng hơn… Trong cuốn sách nhỏ này có lẽ có những câu
chuyện không dễ nghe đối với người Việt Nam, nhưng tôi viết với tất cả tấm lòng
cầu chúc cho sự phát triển của Việt Nam”.
Tôi cũng mạnh dạn viết ra vài điều có thể “không dễ nghe” đối với TG cũng
như đối với một vài người Việt Nam, nhưng tôi viết với tấm lòng kính trọng, biết
ơn TG, ông Umeda Kunio và cầu chúc cho sự phát triển của Việt Nam.
TG tin tưởng là dựa vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong vài năm
cuối thế kỷ 20, đầu TK 21. Đó là niềm tin không đến nỗi thiếu căn cứ, nhưng quá
lãng mạn vì sự phát triển đó không vững chắc, thiếu động lực mạnh, hơn nữa kinh
tế tuy có phát triển nhưng môi trường bị tàn phá, giáo dục, đạo đức xuống cấp
thì không thể cho là quốc gia hùng cường, thịnh vượng.
Lời Giới thiệu của GS Trần Văn Thọ, người hiệu đính bản dịch. Theo GS Thọ,
Nhật Bản có thể rút ra ba bài học từ lịch sử Việt Nam trong quan hệ với Trung
quốc. Một là nâng cao cảnh giác, hai là củng cố sức mạnh và hợp tác với các nước
khác, ba là khi đối diện với những hành động xâm lược thì phải phản kháng mạnh
mẽ. Không biết rồi Nhật có học được hay không, chứ lãnh đạo Việt Nam hiện nay hầu
như không tiếp thu được những bài học từ tổ tiên.
Trong lời mở đầu, TG viết: “Sự tin cậy giữa lãnh đạo cấp cao giữa hai
nước tăng cao”… chúng ta đã trở thành đồng minh tự nhiên của nhau. Đúng là
tin cậy có tăng, nhưng cao đến bao nhiêu, chưa biết. Đúng là đã trở thành đồng
minh tự nhiên trong một vài lĩnh vực. Nhưng liệu Nhật – Việt đã trở thành bạn
thân được không thì chưa thể nói.
Để trở thành bạn thân, người ta phải cùng quan điểm chính trị, sẽ thân
hơn khi cùng niềm tin tôn giáo. Về chính trị thì Việt và Nhật đi theo hai đường
khác nhau, bên này đối chọi với bên kia. Trước đây các nước dân chủ rất lo sợ sự
xâm nhập của cộng sản nên tìm mọi cách ngăn ngừa và xa lánh. Ngày nay người ta
chủ trương chung sống hòa bình, tôn trọng sự lựa chọn chế độ chính trị của người
khác. Nhưng tôn trọng còn xa mới đến tán thành, còn xa mới đến việc cho rằng đó
là sự lựa chọn khôn ngoan, hợp lý.
Về tôn giáo thì lãnh đạo Việt Nam theo trường phái vô thần và đa số dân
theo đạo Phật, nhưng Phật giáo ở Việt Nam đã bị quốc doanh hóa nặng nề. Việt –
Nhật thân nhau hơn so với vài nước khác, nhưng chưa thành bạn thân được.
Việt – Nhật chỉ trở thành thân thiết trong việc xử lý mối quan hệ với
Trung Cộng. Nhưng quan hệ đó có điểm khác cơ bản. Nhật, tuy hiện nay bị Trung Cộng
gây hấn ở biển Đông, tranh chấp đảo Điếu Ngư, nhưng đã có thời kỳ Nhật chiếm
đóng Trung Quốc, còn Việt Nam thì, tuy lịch sử có những chiến công chống giặc
Tàu, nhưng mấy chục năm qua lại bị lệ thuộc vào họ quá đáng.
Về việc các bạn trẻ Việt Nam sang lao động ở Nhật, theo TG thì đó là việc
tốt, giúp giải quyết nạn già hóa dân số của Nhật, nhưng theo quan điểm của tôi
thì đó chỉ là giải pháp tình thế, không cơ bản. Khác với người Hàn và người Nhật
sang Việt Nam để làm thầy, người Việt sang Nhật chỉ để làm thợ, làm người giúp
việc là chủ yếu. Xuất khẩu lao động là một
biến thể của buôn bán nô lệ trong xã hội văn minh.
Lãnh đạo Việt Nam tự hào vì họ giữ được ổn định chính trị. TG nêu lại như
là một lời ca ngợi, một điều kiện để nhận đầu tư của nhiều nước. Chỗ này có một
nhận thức cần thảo luận. Để phát triển thì ổn định xã hội quan trọng hơn và ổn
định chính trị là một trong những điều kiện cần cho ổn định xã hội. Mà xã hội Việt Nam đang kém ổn
định, hơn nữa sự ổn định chính trị hiện nay của Việt Nam không phải tự thân, mà
cần chống đỡ. Đảng CSVN chống đỡ bằng hai lực lượng, bạo lực của công an và
tuyên truyền dối trá của tuyên giáo. Nếu hai lực lượng ấy bị suy yếu thì ổn định
sẽ mất.
Dựa vào tình hình chống dịch từ cuối năm 2020, đầu năm 2021, TG đưa ra nhận
xét: “Việt Nam là một trong những quốc gia thành công nhất thế giới trong
phòng chống đại dịch Covid-19”. Đó là nhận xét quá vội vàng, quá lạc quan
và sẽ thấy là sai khi tiếp tục theo dõi tình hình từ cuối năm 2021 trở về sau.
Nhưng có thể thông cảm với nhận xét này vì thời gian TG kết thúc viết sách vào
đầu năm 2021.
Mục
1: Chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của Nhật
hoàng và Hoàng hậu
Chuyến thăm từ ngày 28 tháng 2 đến 5 thán 3 năm 2017. Ngoài những nghi lễ
thông thường, hai vị đã gặp gỡ các vợ, con của lính Nhật được bỏ lại miền bắc
VN từ năm 1954. Năm 1945, quân Nhật rút về nước, nhưng có một số ớ lại, lấy vợ
người Việt, tham gia cùng Việt Minh đánh Pháp. Những người này, năm 1954 về Nhật,
để lại vợ con. Lúc gặp Nhật hoàng, bà Nguyễn Thị Xuân đã 93 tuổi, ông Ngô Gia
khánh 72 tuổi. Những người vợ và con của lính Nhật này sau đó được tổ chức đi
thăm Nhật, nhiều người được đến viêng mộ, thắp hương cho chồng, cho cha.
Ngày 4 tháng 3 Nhật hoàng đến thăm khu lưu niệm Phan Bội Châu tại Huế,
Nhân việc này TG ôn lại công cuộc “Đông du” của Chí sĩ Phan Bội Châu và tình bạn
thắm thiết của ông với bác sĩ Asaba Akitaro. Tình bạn đó là một dấu ấn quan trọng
trong lịch sử giao lưu Việt – Nhật.
Mục
3: Trung Quốc từ góc nhìn của Việt Nam
TG viết: “Không những chính phủ mà người dân VN cũng có ý thức cảnh
giác, đề phòng Trung Quốc”. Viết như thế, tuy đã tách chính phủ và người
dân, nhưng lại đặt chính phủ lên trước, người dân theo sau. Trong nhiều chuyện
thì đúng như vậy, nhưng trong quan hệ VN-TQ có hơi khác.
Việc tàu TQ đặt dàn khoan HD 981 là tương đối rõ. Tháng 5 năm 2014, TQ đem
dàn khoan HD 981 đặt ở biển VN. Chính phủ chỉ cho người của Bộ Ngoại giao ra
tuyên bố phản đối, lời văn theo mẫu, nhưng thể hiện yếu ớt, trong khi đó lại mạnh
tay đàn áp các cuộc biểu tình của người dân tự tổ chức để phản đối Trung Cộng
xâm lấn.
Ở trang 55, TG viết: “Trình độ hiểu biết về TQ của VN vô cùng cao”. Viết
như vậy dễ gây nhầm. Việt Nam nào, dân hay lãnh đạo cấp cao. Hiểu biết của dân
có nhiều mức độ, mà mức độ cao là của những trí thức tinh hoa, những người này
đang bị đảng cầm quyên thù ghét, tìm cách triệt hạ, còn lãnh đạo cao cấp, trong
lòng không biết như thế nào, chứ thể hiện ra bên ngoài thì rất đáng lo ngại.
Cuối mục, TG viết được một câu có nghĩa: “… Nhưng nếu chính phủ
VN thiếu cương quyết trước những hành vi đe dọa đến chủ quyền lãnh thổ VN của
Trung Quốc thì họ sẽ mất đi sự tin tưởng và ủng hộ của người dân…”. Không
phải là “sẽ mất” mà thực tế đã mất.
Mục
4: Sự trỗi dậy và hành vi của Trung Quốc
TG trình bày giấc mộng làm bá chủ và sự trỗi dậy của TQ với những “chiến
thuật” như: Tằm ăn dâu, luật pháp, dư luận, tâm lý. Đó là những thủ đoạn nham
hiểm, thâm độc. Trong các thủ đoạn thì có lẽ việc hối lộ các nhân vật cấp cao
trong chính quyền các nước là việc mà Trung Cộng đã phát huy truyền thống và đạt
trình độ nghệ thuật bậc cao. Tuy vậy, trong sách chỉ viết loa qua: “bằng
cách trao lợi ích kinh tế cho một nhóm người”. Với Việt Nam, Trung Cộng còn
có sự thâm hiểm xúi giục chính quyền tìm cách triệt hạ những trí thức tinh hoa.
(để chúng dễ bề thao túng) bằng cách vu cho họ la phần tử chống đối, nguy hiểm.
Mục
6: Mối quan hệ giữa Nhật và Việt
Các nhà lãnh đạo VN khẳng định rằng, “Nhật Bản là đối tác đáng tin cậy
và quan trọng nhất của VN”. Điều đó đúng vì người Nhật đã thể hiện những đức
tính tốt đẹp, trung thực, tôn trọng, hòa hiếu. Thế còn lãnh đạo của Nhật có dám
xem lãnh đạo VN là đáng tin cậy không, khi mà, về đối nội thì độc tài, tàn bạo,
dối trá tràn lan, nói nhiều điều hay mà làm ngược lại, họp hành và viết nhiều
nghị quyết nhưng phần lớn chỉ là những thứ tào lao, rất dị ứng với chế độ tam
quyền phân lập, không tôn trọng nhân quyền và công lý, chống tham nhũng có vẻ
tích cực, nhưng chệch hướng, không phòng chống được, chỉ mới trừng phạt một số
vụ. Đối ngoại theo hình tượng “cây tre”, gió chiều nào ngã theo chiều đó. Có
nhiều điều mà Cộng sản Việt Nam tôn sùng thì đã bị thế giới vứt vào đống rác từ
lâu.
TG viết: “Tôi càng vững tin rằng vai trò quan trọng của VN sẽ được
nâng lên một mức cao hơn nữa”. Nâng lên cao như thế nào đã được viết trong
một đoạn trên (lời nói đầu).
Mục
12: Hiện trạng của nền kinh tế Việt Nam
TG dưạ vào sự phát triển cơ sở vật chất trong những năm đầu của thế kỷ 21
mà đưa ra nhận định lạc quan, rằng: “Xã hội VN ngập tràn hy vọng, không khí
cả nước hào hứng và tươi sáng…VN sẽ làm nên điều kỳ tích. ở khu vực châu Á. Tuy
đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, nhưng với sự cần cù, bền bỉ
và khát vọng… dự đoán này hoàn toàn có khả năng xẩy ra”.
Những người quá tin vào chính quyền và sự lãnh đạo của đảng Cộng sản nghe
mà sướng cái lỗ tai. Như là được trích từ lời tuyên truyền hoặc nghị quyết của
đảng. Viết như vậy có khả năng bị lợi dụng để tuyên truyền (vì đây là nhận xét
của một người Nhật).
Cuộc sống xã hội gồm vật chất và tinh thần. Ban đầu, khi đang nghèo đói
thì vật chất là quan trọng. Khi vật chất đã tạm đủ thì vai trò của tinh thần
tăng lên. Phát triển phải nhằm đem đến hạnh phúc cho con người, mà hạnh phúc có
được chủ yếu bằng cuộc sống tinh thần (khi vật chất tạm đủ).
Nhìn thẳng vào đời sống tinh thần của xã hội VN hiện nay, thấy rõ đạo đức
và giáo dục xuống cấp, các ý kiến phản biện bị đàn áp, tự do ngôn luận bị cấm
đoán, nhân quyền không được tôn trọng, công lý bị tòa án chà đạp v.v… thì làm
sao có được sự tươi sáng, hào hứng.
Cuối mục, TG nhắc đến ổn định chính trị, thành công trong chống dịch và lực
lượng lao động chất lượng cao là những điều kiện tốt thu hút đầu tư. Ổn định
chính trị và thành công trong chống dịch đã nói qua ở đoạn trên, còn lao động
chất lượng cao là một ước mơ hơn là thực tế.
(Còn tiếp)
***
Điểm
sách: Nhật Bản và Việt Nam là đồng minh tự nhiên (Phần 2)
Nguyễn Đình Cống
22/07/2023
https://baotiengdan.com/2023/07/22/diem-sach-nhat-ban-va-viet-nam-la-dong-minh-tu-nhien-phan-2/
Tiếp theo phần 1
Mục
13: Mối quan hệ kinh tế khăng khít giữa Việt
Nam và Nhật Bản
Tác giả cho rằng: “Mối quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Việt Nam ngày
càng mở rộng và đi vào chiều sâu”. Ông kể ra chi tiết 6 việc đã rất
thành công. Ông cảm thấy rất may mắn khi có thể kết thúc nhiệm kỳ làm việc mà
không có sự hối tiếc nào. Xin chúc mừng ông.
Về cán bộ cấp cao của Việt Nam, ông tỏ ý kính phục Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc khi viết: “Thủ tướng Phúc luôn lắng nghe chăm chú, không có một chút
khó chịu nào đối với các đề nghị của tôi”. Lời nhận xét này là chân
thành, nhưng hơi vội.
Khi thấy ai lắng nghe chăm chú thì có thể xảy ra một trong hai trường hợp.
Một là họ chỉ vì lịch sự mà không hiểu gì cả, hai là họ chăm chú nghe vì thu nhận
được những ý quan trọng, thấm thía. Để biết trường hợp nào thì phải có khả năng
quan sát nét mặt người nghe và phán đoán. Theo dõi ông Phúc trong nhiều năm tôi
cho rằng ông Phúc thuộc trường hợp thứ nhất. Thế cũng là tốt, đáng khen chứ
chưa đáng khâm phục.
Mục
16: Bản sắc riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam
TG viết: “Đảng Cộng sản của hai nước (VN và TQ) nhìn qua thì giống
nhau về công cụ nhưng bản chất lại có sự khác nhau rất lớn. VN không phải là quốc
gia “cường quyền” giống như Trung quốc. Tôi không nghĩ rằng VN muốn trở thành một
đất nước giám sát, đàn áp người dân của mình bằng cường quyền. Mặc dù đi theo
thể chế một chính đảng duy nhất, nhưng VN luôn cố gắng nắm bắt kịp thời những
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân …”
Đoạn vừa trích chứng tỏ TG không nằm trong chăn để biết chăn nhiều rận. Bản
chất của CSVN và CSTQ có chỗ khác nhau do ảnh hưởng của truyền thống dân tộc
nhưng sự khác nhau không lớn. Những việc CSTQ làm hôm trước thì hôm sau đem dạy
cho CSVN, đặc biệt là những thủ đoạn của công an, những điều hành trong quân đội,
những biện pháp theo dõi và khống chế nhân dân.
Điểm khác nhau cơ bản có lẽ là trong cách đối xử với trí thức tinh hoa.
CSTQ rất coi trọng việc sử dụng trí thức tinh hoa của họ, nhưng lại bày mưu thâm
độc cho CSVN trừ khử tinh hoa của Việt Nam bằng cách vu cáo là phần tử thù địch,
chống đối.
TG viết “không nghĩ rằng VN muốn trở thành một đất nước
giám sát, đàn áp người dân của mình bằng cường quyền”. Ý ấy là tốt, nhưng
thực tế không phải như vậy. Cộng sản ở đâu cũng dùng cường quyền đàn áp, thủ
tiêu những người dân có ý kiến, có tư tưởng khác với họ.
Về nguyện vọng của nhân dân, cần xem đó là nhân dân nào. Thực tế nhân dân
có nhiều tầng lớp với các nguyện vọng khác nhau. A- Tầng lớp gắn chặt với Đảng
(còn đảng còn mình), B- Tầng lớp công nông và những người lao động bình thường,
C- Tầng lớp trung lưu, lao động trí óc.
Tầng lớp B là rộng lớn, là khối công nông liên minh, nguyện vọng của họ
chủ yếu là được yên ổn để làm ăn, con cái được học hành. Họ không có nhiều nguyện
vọng về tự do dân chủ, họ sẵn sàng làm theo yêu cầu của chính quyền và chịu đựng
những bất công vừa phải do cán bộ nhà nước gây ra. CS làm cách mạng dựa vào khối
liên minh này.
Tầng lớp C là một trong ba lực lượng chủ chốt phát triển xã hội. Họ có
nguyện vọng cao về đời sống tinh thần, về tự do tư tưởng, tự do ngôn luận. CSVN
nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, nếu có chuyện đó, thì chủ yếu là đối với tầng
lớp A và B mà tìm cách hạn chế đối với tầng lớp C.
Nhìn bên ngoài thì thấy CSVN quan tâm đến phát triển kinh tế. Việc đó có
tác dụng nâng cao đời sống của nhân dân, nhưng chính là để đảng thu được nhiều
lợi hơn, vì tài chính của đảng chủ yếu lấy từ ngân sách nhà nước, nghĩa là từ
tiền thuế của dân.
TG viết: “VN hiện đang thực hiện tinh gọn bộ máy ở cấp xã, huyện… nhất
thể hóa chức danh bí thư cấp ủy đồng thời cũng là chủ tịch ủy ban nhân
dân…”. Ở trang 185, 186 (mở đầu chương 6) viết, “quyết định
xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị hoạt dộng hiệu lực, hiệu quả…,
xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch , vững mạnh…”.
Viết cho vui thế thôi chứ không thể nào làm được. Chỉ có những người u
mê, ngu tín, ngu trung mới tin vào những điều đó. Lập ra bộ máy nhà nước ba tầng
chồng chéo nhau, rồi bịa ra lý luận Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân
dân làm chủ thông qua Mặt trận Tổ quốc. Ba tầng dẫm đạp nhau, tạo ra nhiều lãng
phí. Nhất thể hóa được một người thì làm xoay chuyển được gì.
Đảng CSVN đã từng là một đảng làm cách mạng, nay chuyển thành một đảng cầm
quyền. Phải thay đổi từ chính cương, điều lệ, tổ chức, triết lý chứ không phải
cho rằng chống được tham nhũng thì sẽ xây dựng được đảng trong sạch, vững mạnh.
Mục
18: Thực trạng của những cải cách đã bắt đầu
“Cải cách” là
do TG gọi còn lãnh đạo Việt Nam chỉ thích dùng từ “đổi mới”, họ rất dè dặt khi
nói đến cải cách. TG viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và ban lãnh đạo
ĐCSVN đều nhận thức rõ ràng về nguy cơ trong tương lai của ĐCS. Ban lánh đạo đảng
đang tích cức đấu tranh phòng chống tham nhũng…”. Tưởng như thế là đúng, là
hay, nhưng chưa phải.
Ông Trọng làm trưởng ban phòng chống tham nhũng nhưng ban đó chẳng phòng,
cũng chẳng chống để tham nhũng không thể xảy ra, mà chỉ điều tra, xét xử một số
vụ (gọi là “đốt lò”). Nhiều người có hiểu biết ở Việt Nam cho rằng dưới sự lãnh
đạo của ĐCS không thể nào phòng chống được tham nhũng. Lãnh đạo quan tâm đến cải
cách nền “hành dân là chính” bằng biện pháp tinh giản bộ máy, nhưng tinh được
chỗ này lại phình ra chỗ khác.
Tất cả đang vướng vào mớ bùng nhùng, càng quẫy đạp càng bị vướng nhiều chỗ.
Vì sao vậy? Vì rằng tham nhũng và tệ nạn hành chính đều là bệnh do u xơ trong
gan ruột của Đảng, cần giải phẫu để cắt bỏ nhưng vì bản chất cộng sản mà không
dám, chỉ tìm thuốc xoa ngoài da. Vậy chưa thể nói cải cách đã bắt đầu mà đó mới
chỉ là người ta tưởng là thế.
Mục
19: Hỗ trợ của Nhật Bản đối với đào tạo nhân lực và cải cách của Việt Nam
Sự hỗ trợ của Nhật Bản đối với đào tạo nhân lực của Việt Nam xét về
phương diện kỹ thuật là rất có hiệu quả, nhưng trong tổng thể còn thiếu một thứ
quan trọng. TG viết: “Kế hoạch cải cách hệ thống chính trị mà VN đang tích cực
triển khai là một thử nghiệm mang tính lịch sử nhằm thay đổi nhận thức của người
dân và thay đổi mạnh mẽ cách thức tổ chức của bộ máy quản lý…., cải cách này
đóng vai trò vô cùng quan trjng không chỉ với tương lai của VN ma còn đối với sự
ổn định và thịnh vượng của khu vưc”. Thứ quan trọng tôi muốn nói tới
liên quan đến “cải cách hệ thống chính trị” mà TG viết là “đang tích cực triển
khai”.
TG còn viết: “Tôi hy vọng rằng, VN sẽ trở thành một xã hội mà ở đó
nhân tài ưu tú, có ý chí mạnh mẽ được thỏa sức thể hiện năng lực của
mình”. Xã hội mà TG hy vọng đó chỉ có thể có được dưới thể chế chính
trị đã loại bỏ được độc tài của thế lực kém trí tuệ.
Cải cách hệ thống chính trị như viết ở trên là mong ước thiết tha của nhiều
người dân và cũng trùng với mong đợi của TG, nhưng đó chưa phải là ý chí của
lãnh đạo Việt Nam. Cải cách hệ thống chính trị phải theo hướng từ bỏ chủ nghĩa
Mác Lênin, từ bỏ ảo tưởng xây dựng chế độ XHCN, thoát khỏi sự khống chế của
Trung Cộng, xây dựng nhà nước dân chủ với tam quyền phân lập, từ bỏ chế độ đảng
trị, xóa bỏ hình thức “đảng cử dân bầu”, kết bạn thân thiết với các nước dân chủ.
Trước đây Nhật Bản và Việt Nam xem Mỹ là kẻ thù. Quân Mỹ đến đóng trên đất
Nhật năm 1945 trong sự thù hận của dân Nhật. Nhưng rồi người Nhật đã từ bỏ được
chế độ quân phiệt, đã được người Mỹ hỗ trợ xây dựng đất nước, đó là những bài
mà Việt Nam phải tìm để học từ người Nhật.
TG nêu ra khá nhiều bài ‘chia sẻ kinh nghiệm” của các chuyên gia Nhật,
không trình bày nội dung cụ thể, không biết trong các kinh nghiệm đó có ai mạnh
dạn giới thiệu những bài học về quan hệ với người Mỹ và thể chế chính trị ở Nhật
hay không.
Mục
20: Cảm tình với Nhật Bản của Việt Nam
“Trong mắt người VN, người Nhật Bản luôn gắn liền với hình ảnh chăm chỉ,
chân thành, khiêm tôn, không bao giờ nói dối”. Đó là câu ở đầu mục 20. TG
viết tiếp, “Bên cạnh đó, nhiều cá nhân, tổ chức của Nhật bản đã nỗ lực, bền
bỉ trong suốt nhiều năm vì phúc lợi và sức khỏe của người VN. Cống hiến không mệt
mỏi đó của họ đã đem lại cái nhìn đầy tích cực…”.
Điều trên là hoàn toàn đúng. Riêng tôi và tôi nghĩ rằng
có nhiều người Việt cũng như tôi còn cảm phục người Nhật ở hai điểm sau:
Một là, trước năm 1945 họ đã chọn sai đường, sau năm
1945 đã kiên quyết cải cách, đã xây dựng một thể chế chính trị đảm bảo sự phát
triển tự do của con người, họ đã nhanh chóng và khôn ngoan nhận ra bản chất tử
tế của người Mỹ và chọn Mỹ làm đồng minh.
Hai là, người Nhật đã có một lòng tự tin lớn khi
chơi thân và giúp đỡ Việt Nam, mà không sợ bị ảnh hưởng bởi phương châm “gần mực
thì đen” khi chọn bạn mà chơi. Họ nổi tiếng không bao giờ nói dối, trong khi đó
nói dối là một đặc tính của cộng sản và đã tiêm nhiễm ngày càng sâu rộng cho khá
đông người Việt.
Lời
cuối
Tác giả Umeda Kunio cho rằng, trong sách có lẽ cũng có những câu chuyện
không hề dễ nghe đối với người Việt Nam, nhưng ông đã viết ra với lòng trung thực
và mong ước tốt lành. Nhà Xuất bản cũng không chia sẻ hoàn toàn các quan điểm của
tác giả, nhưng đã in sách với lòng kính trọng dành cho ông.
Cũng với tinh thần như vậy, tôi viết ra vài nhận xét mong được trao đổi với
bạn đọc và với cả tác giả, để hoàn thiện nhận thức. Khi đọc bài này, nểu tác giả
hoặc độc giả nào phát hiện điều tôi hiểu sai thì xin được chỉ giáo (xin gửi vào
ndcong37@gmail.com). Tôi sẽ vô cùng biết ơn.
No comments:
Post a Comment