04:44:pm
09/05/16
http://www.danchimviet.info/archives/102753/vai-suy-nghi-ve-dai-ve-chi-di-cua-bui-thanh-hieu/2016/05
.
Tác
giả Bùi Thanh Hiếu
Có
thể nói, một vài thập niên gần đây, Đảng luôn kêu gào cởi trói cho
các văn nhân, nghệ sĩ, nhưng giới cầm bút dường như vẫn không thoát ra
khỏi cái thòng lọng, dây trói trong tay của Đảng. Do vậy, một số nhà
văn có tư tưởng tự do, công lý còn ở trong nước buộc phải sử dụng
những thủ pháp nghệ thuật độc đáo riêng, lách ra khỏi cái vòng kim
cô ấy, nhằm đưa được tác phẩm của mình đến với người đọc. Những cây
bút ấy tuy không nhiều, nhưng tư tưởng cũng như sự can đảm của họ đã
vượt qua sự suy nghĩ của rất nhiều người. Trong số đó phải kể đến nhà văn Võ Thị Hảo với Giàn
Thiêu, Dạ Tiệc Qủi, Phạm Thành
với Hậu Chí Phèo, Cò Hồn Xã Nghĩa, Văn
Biển với Que Diêm Thứ 8… Và gần đây nhất cuốn Đại Vệ Chí Dị của
Bùi Thanh Hiếu (Người Buôn Gió) do nhà xuất bản Vipen (Berlin) in ấn,
tác giả tự phát hành. Đây là cuốn sách khá dày dặn (564 trang), tôi
vừa nhận được từ Tiến Sĩ Peter Knost và nhà thơ Thế Dũng đồng Giám
đốc Vipen gửi tặng và yêu cầu viết lời giới thiệu.
Tuy
đã gặp gỡ và khật khừ bia rượu với nhau vài lần ở nơi bạn bè,
nhưng quả thật tôi chưa đọc Bùi Thanh Hiếu, ngoài mấy bài báo mang
tính thời sự. Nên ngày 7 tháng 3 năm 2015 vừa qua ở Hà Nội, khi bị
bắt để trục xuất về Đức, công an Việt Nam hỏi cảm nghĩ về thơ văn
Bùi Thanh Hiếu, tôi không thể trả lời.
Bùi
Thanh Hiếu sinh năm 1972 tại Hà Nội, thuộc thế hệ trẻ, nhưng được cho
là cây viết già. Đọc Bùi Thanh Hiếu, thấy cuộc sống khổ ải đầu đời
của hắn tựa như thời tuổi trẻ của tôi cũng đã phải trải qua. Nhưng
cái kết, hắn trở thành giang hồ thứ thiệt (theo đúng cả hai nghĩa)
còn tôi chỉ là thứ giang hồ vặt “ Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà“.
Tuy thế hệ, tuổi tác có cách khá xa, nhưng hiện tại hắn và tôi có
đặc điểm chung nữa là: Ngồi bệt. Do vậy, khi đọc, tôi thấy cái sự
đồng cảm của mình đôi lúc lấn át cả khiếm khuyết trên những trang
văn của hắn.
Có
thể nói, Đại Vệ Chí Dị không chỉ đưa tên tuổi Bùi Thanh Hiếu đến
với bạn đọc người Việt trong và ngoài nước, mà còn đến với cả những
chính khách, người ngoại quốc quan tâm đến Việt Nam.
*Bộ
mặt thật của chế độ thối nát đương thời.
Nếu
các nhà văn Võ Thị Hảo, Văn Biển, Phạm Thành… đã mượn cõi ảo, lấy
vô hình rọi vào cái hữu hình, thì với tác phẩm Đại Vệ Chí Dị,
Bùi Thanh Hiếu kéo hiện thực lùi về quá khứ để bóc trần sự thật
thối nát của xã hội đương thời, và thân phận con người. Có thể
khẳng định, không riêng Đại Vệ Chí Dị, mà tất cả những sáng tác của
Bùi Thanh Hiếu trước đây cũng như hiện nay đều bám vào cuộc sống, xã
hội và đầy ắp tính thời sự nóng hổi. Dù bút pháp, cung cách
chuyển tải mỗi tác phẩm hoàn toàn khác nhau.
Có
một số nhà nghiên cứu cho rằng: Bùi Thanh Hiếu đã ghi lại những gì
trông thấy ở nước Vệ, triều Sản để phản ánh thực trạng xã hội Việt
Nam bây giờ. Tôi không hoàn toàn đồng ý như vậy, và câu trên xin phép
đổi lại vế đầu: Trong
hoàn cảnh kiểm duyệt tư tưởng, sách, báo bằng an ninh và tù đày như
ở Việt Nam hiện nay, buộc Bùi Thanh Hiếu phải mượn, hay vẽ ra bối
cảnh, xã hội triều Sản, nước Vệ nào đó, để phản ánh, bóc trần sự
thật ghê tởm đang diễn ra hàng ngày trong cung đình Cộng sản và nỗi
thống khổ của tầng lớp bị trị.
Có
một điều quả thật chưa rõ ràng, đến lúc này ngồi viết, tôi vẫn
không nghĩ, Đại Vệ Chí Dị là cuốn tiểu thuyết, như đã được in, đánh
giá trong cuốn sách. Bởi tác giả không sáng tạo (tiểu thuyết hóa)
những tình tiết sự việc. Mà Bùi Thanh Hiếu đã bê nguyên xi bối cảnh,
nhân vật, sự kiện hoàn toàn có thực đã và đang diễn ra dưới chế độ
xã hội đương thời vào trang sách của mình. Tuy nhiên, sự trần thuật
ấy được dẫn dắt bởi văn phong cổ mang dáng dấp sử ký. Với văn phong
này, tác giả không chỉ dẫn dắt những độc giả lớn tuổi, mà dường
như giới trẻ cũng bị cuốn hút bởi nghệ thuật gieo mầm, cài đặt cùng
những tình tiết sự việc được đan xen một cách sinh động, kết thúc
từng hồi, rất kịch tính khi đọc.
Tôi
cho rằng, đây cũng là thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của Đại Vệ Chí
Dị. Và cùng với nó, tác giả đã rất thành công chuyển tải ý đồ
của mình đến người đọc. Dù xuyên suốt tác phẩm là những câu chuyện
ngoài đời, tình tiết sự việc được xâu chuỗi lại, thông qua lời kể.
Tuy
được bắt đầu bằng nhân vật Tiên Đế (Hồ Chí Minh), nhưng Đại Vệ Chí
Dị lại xoáy sâu vào mâu thuẫn, bè phái cũng như sự đê hèn của Đảng
và chính quyền (cung vua, phủ chúa) trước dã tâm của giặc phương Bắc.
Từ đó, ta có thể thấy được nỗi đau của dân tộc và thân phận rẻ mạt
của con người, từ sau công cuộc được gọi là đổi mới đến nay.
Và
từ đây, một lần nữa, Bùi Thanh Hiếu lại mượn bối cảnh, sân khấu cung
vua , phủ chúa thời Lê- Trịnh để phơi bày dã tâm, đấu đá tranh giành
quyền lực, giữa Đảng và chính quyền (giữa Tổng bí thư và Thủ
Tướng). Làm người đọc phải rùng mình kinh hãi, trước sự thối nát
của một chế độ độc tài với hai thế lực (Đảng và Chính phủ) đầy
đủ quyền hành, ban bệ chồng chéo đang trèo đầu cỡi cổ, hút kiệt
sức dân. Và nỗi thống khổ ấy càng được nhân lên, bởi chính sách cai
trị không chỉ bóp, thiến dạ dày bao tử, mà còn bủa vây, bưng bít
giam hãm những suy nghĩ, tư tưởng con người. Đoạn trích đưới đây, chỉ
là một trong hàng trăm, hàng ngàn câu chuyện đang lưu truyền trong dân
gian. Nó đã được Bùi Thanh Hiếu hình tượng hóa vào trang viết của
mình một cách sâu sắc, sinh động. Tuy tiếng cười là đấy, nhưng quặn
lên những nỗi đau, bởi chân tướng thực sự đã được phơi bày, lòng tin
của con người đã bị đánh cắp, trước sự lừa bịp cũng như mưu mô, nham
hiểm của tập đoàn thống trị, ngay từ khi cướp được chính quyền. Và
với tôi, có lẽ đây là đoạn văn lột mặt của sự thần tượng hóa, một
cách thâm thúy nhất trong tác phẩm Đại Vệ Chí Dị:
“Quần
thần xúm lại xin ngài kể rõ câu chuyện. Kính Vệ Vương kể rằng :
– Năm
xưa thuở núi rừng; mưu chí lớn bình thiên hạ. Có người thuộc hạ hỏi tiên đế sau
này nếu dựng được nghiệp thì trị dân thế nào? Tiên đế mới sai người đó vào rừng
bắt sống một con khỉ. Bảo người ấy nhốt trong lồng, lúc đầu cho ăn hoa trái đầy
đủ, càng ngày cho càng ít đi đến lúc mỗi ngày con khỉ chỉ ăn được một quả chuối,
con khỉ vẫn vui vẻ vô tư. Sau đó tiên đế sai ngươi ấy đem cái lồng khỉ vào rừng.
Mỗi ngày cho ăn vẫn chỉ một quả chuối.
Được
7 ngày thì con khỉ trong lồng nhăn răng ra mà chết. Người đó về tâu với tiên đế
chuyện khỉ chết, tiên đế cười hà hà bảo:
–
Ta nghĩ nó sống được đến 5 ngày thôi, ai ngờ lâu thế!
Người
kia mới hỏi tại sao khỉ mang vào rừng cho ăn vẫn thế mà chết. Tiên đế bảo:
–
Tại vì khi trước nó ăn như thế, nó nghĩ rằng cả loài khỉ cũng chỉ ăn thế. Khi bị
đưa vào rừng nó thấy không phải vậy, các con khỉ khác tự do kiếm ăn, ăn uống
tha hồ thoải mái, nó không được ăn thế, nó buồn rầu, tức tối rồi không làm gì
thoát được cảnh đó sinh bệnh mà chết. Ấy là lẽ tự nhiên, con người cũng vậy mà
thôi, nếu họ khổ mà không có gì so sánh thì tất họ nghĩ đó là lẽ đương nhiên của
đất trời, số mệnh, họ hài lòng sống. Nhưng nếu họ có gì để so sánh thì tất lòng
dạ sẽ sinh nghi, mầm họa từ đó sẽ mà ra. Đạo trị dân chỉ đơn giản có vậy…“ (Sách đã
dẫn-trang 128)
Qua
Đại Vệ Chí Dị cho ta thấy, Tác giả có trí tưởng tượng rất phong phú.
Tuy bút pháp giả cổ, nhưng biến hóa khôn lường, Bùi Thanh Hiếu đã
hình tượng hóa một cách điêu luyện cuộc tranh giành quyền lực giữa
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bằng
những cuộc đọ sức sống mái trên chiến trường. Có thể nói, đây là
những trang viết sinh động. Nó không chỉ bóc trần được dã tâm, sự
tàn bạo của chế độ Cộng sản, mà còn mang đến cho người đọc những
giây phút hồi hộp và sảng khoái nhất. Đoạn trích dưới đây, chưa hẳn
đã là đoạn văn tiêu biểu, nhưng với những diễn viên Trăm Xanh Nguyễn
Bá Thanh, Báu Mã Phạm Qúi Ngọ và tù binh anh em nhà Dương Chí Dũng,
thì sân khấu hề chèo của giới chóp bu Hà Nội đã được mở ra:
“
Bấy giờ bên Phủ Chúa, cơn giận dâng tràn. Thủ hạ của phủ cứ lần lượt vào vòng
lao lý, ác cái mỗi lúc lại lên cấp cao hơn. Cứ đà này chả mấy chốc nước dâng đến
ngai Chúa. Nhưng giờ bên kia, đại tướng của Vương Phủ là Trăm Xanh dẫn quân
tung hoành. Trăm Xanh đánh trận mở đầu trảm được Dương anh, bắt sống Dương em.
Khí thế ngút trời, thừa thắng định dẫn quân xông vào bộ Hình bắt sống nốt Báu
Mã tướng quân. Báu Mã tướng quân lo sợ, cáo bệnh, đóng doanh trại, không dám ra
ngoài thành nghênh chiến. Trăm Xanh cho quân bủa vây, tình trạng Báu Mã nguy cấp
vô cùng. Nhưng giờ còn chưa biết Vương Phủ có mưu kế gì mà Trăm Xanh dũng mãnh
đến vậy. Phủ Chúa lo lắm nhưng vẫn phải dò xét thêm.
Phía
ngoài phủ phó thượng thư bộ Hình Báu Mã, đại tướngTrăm Xanh hiên ngang cưỡi ngựa
ô, truyền cho chưởng tòa hình mang chiến thư dán trước phủ. Thông báo ngày một
hay hai sẽ phá thành bắt tướng. Một mặt truyền tin về Vương Phủ, báo tin trận đầu
thắng lợi.“
(Đại Vệ Chí Dị-Sách đã dẫn)
Tuy không nghĩ, Đại Vệ Chí Dị là cuốn tiểu thuyết, và khi tôi đọc, tiếp cận nó bằng mạch văn ký sử. Nhưng phải nói, hồi 103 (Tái Ngộ Qủi Môn Quan) đã được Bùi Thanh Hiếu tiểu thuyết hóa, với hình ảnh siêu thực, lời văn ẩn dụ sâu sắc.
Đây
là sự sáng tạo độc đáo của tác giả, khi để hai đồng chí, cũng là
cựu thù bởi tiền tài, quyền lực, gặp lại nhau ở nơi Qủi Môn Quan.
Hình ảnh này, làm tôi nhớ đến linh hồn vật vờ của hai người lính ở
hai chiến tuyến nơi Cổ Thành trong tác phẩm Dạ Tiệc Qủi của nhà văn
Võ Thị Hảo. Có khác chăng, linh hồn hai nguời lính trẻ của Dạ Tiệc
Qủi hiện cong lên dập dờn như những câu hỏi cho cả một dân tộc, còn
hai ông quan đại thần trong Đại Vệ Chí Dị thực sự nhận ra con đường
mình đã đi: “Chúng ta cả đời lầm lạc, theo phường bá đạo, để đến lúc này
không biết kêu ai“
Vâng!
Âu cũng là sự luân hồi, quả báo chăng? Đây là những trang viết hay
của Bùi Thanh Hiếu. Và là một trong những chương (hồi), tôi thích
nhất trong cuốn sách này:
“Mã
nghe tiếng kẻng báo, đứng dậy vòng tay cáo từ, lúc nhờ Xanh đặt hộ hòn đá lên đầu,
Mã chỉ đống đá nói:
- Vua, Chúa tiếm ngôi, bất nhân, bất nghĩa. Trời nào cho thiên mệnh, cái hòn đá to ông ngồi là để Vua và Chúa ai xuống trước thì đội đấy.
- Vua, Chúa tiếm ngôi, bất nhân, bất nghĩa. Trời nào cho thiên mệnh, cái hòn đá to ông ngồi là để Vua và Chúa ai xuống trước thì đội đấy.
Trăm Xanh chợt ngộ, hối hận khóc oà, ôm lấy Báu Mã nói.
- Chúng ta cả đời lầm lạc, theo phường bá đạo, để đến lúc này không biết kêu ai. Xin ông bỏ qua chuyện ngày xưa.
Mã nặng nhọc vì gông, xiềng, đá hổn hển trả lời.
- Tôi đã trả tiền đò cho ông rồi đấy thôi.“ (Đại Vệ Chí Dị- Sách đã dẫn)
Với
cái chết của Báu Mã Phạm Qúi Ngọ và Trăm Xanh Nguyễn Bá Thanh như
một lời cảnh báo trước cho sự sụp đổ của một thể chế, một triều
đại độc tài, thối nát.
Phải
chăng đó là qui luật tất yếu của lịch sử, và cũng chính là tư
tưởng của tác giả, tác phẩm muốn gửi đến người đọc?
*Thân
phận đất nước và con người.
Chắc
chắn rằng, chỉ có những vĩ nhân, những anh hùng xả thân bảo vệ đất
nước mới để lại danh thơm cho hậu thế. Và trong văn học cũng vậy,
sống được và còn đọng lại với đời phải là những trang viết dám
chọc thẳng vào cái ung nhọt của xã hội, đứng về phía công lý, lẽ
phải của con người.
Khi
đọc và nghiên cứu Đại Vệ Chí Dị, tôi nhận ra, tác giả không chỉ ghi
lại từng biến cố đã và đang xảy ra, mà còn cảm được thái độ cũng
như trách nhiệm của người câm bút trước thời cuộc. Thái độ cũng như
tư tưởng ấy của tác giả thường được cài đặt vào những câu thoại
của nhân vật dẫn truyện, hoặc lời bàn của người thời nay.
Và
có thể nói, nếu như tác giả không hóa thân vào những người dân oan
bần cùng, những biểu tình viên bị đánh dập mặt, hay một trí thức
can trường đang bị giam cầm trong ngục tối…để viết, thì hình ảnh họ
không thể hiện lên một cách trung thực và sống động đến như vậy.
Với
ngòi bút tưởng như đùa cợt, bông lơn, nhưng hình ảnh đê hèn, nhu nhược
của Đảng trước giặc phương Bắc và đằng sau nỗi đớn đau ấy là ý chí
không thể khuất phục của người dân hiện lên rất đậm nét, thâm sâu.
Đoạn trích dưới đây, là câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, nhằm
vạch trần thủ đoạn trấn áp cũng như nhu nhược hóa con người của chế
độ đương thời. Nó đã được tác giả nhân cách hóa vào trang văn, làm
người đọc phải bật ra tiếng cười cay đắng:
“Chỉ
cần gom bá tánh lại, đổi thành vài họ, như họ Khiếp, họ Nhược, họ
Cơ là xã tắc yên lành. Những kẻ làm quan lấy họ Cơ. Những kẻ trí
sĩ, nhân tài có hiểu biết mang họ Nhược, còn dân đen lấy họ Khiếp.
Những kẻ không mang họ ấy, tất là bọn mang mầm mống phản loạn…
Hàng
ngày công sai nhà Sản đi lùng sục giữa các phố phường, thấy quán xá, vườn hoa
nào đông người là xộc tới hỏi danh tính. Kẻ nào họ Khiếp, họ Nhược thì không
sao, những kẻ mang họ khác đều bị bắt lên xe bát mã một đống về phủ trị tội.
Riêng
họ Cơ là họ nhà quan, có dấu ấn riêng không bị xét hỏi. Họ này từ vua chúa nhà
Sản đều dùng, như Cơ Nông Cường, Cơ Nguyễn Bạo, Cơ Nguyễn Kính, Cơ Nguyễn Vượng…“ (Đại Vệ Chí
Dị-Sách đã dẫn)
Có thể khẳng định, một chế độ độc tài, dối trá, và lưu manh, với những bè phái chém giết, tranh giành tiền tài và quyền lực, thì điều hiển nhiên đất nước ấy đang đứng trên hố sâu vực thẳm.
Thật
vậy! Đọc Đại Vệ Chí Dị, ta có thể thấy, dưới sự thống trị của
Đảng đất nước đang đi đến tuyệt lộ. Xã hội đã bị lưu manh hóa đến
thượng tầng, với những băng đảng hợp pháp đang hút kiệt tài nguyên
và sức người. Môi trường thiên nhiên bị tàn phá một cách tàn nhẫn,
man rợ. Mọi quan hệ xã hội, làng xóm, gia đình đều được đong đếm
bằng tiền bạc. Nạn kiêu binh, âm binh nổi lên đàn áp, ức hiếp chính
những người khốn khổ, đang ngày đêm è cổ nuôi dưỡng mình. Chúng ta
hãy đọc lại đoạn trích dưới đây, để thấy được sự tha hóa đến tận
cùng của xã hội và con người:
“Công
sai đi tuần ráo riết hàng giờ ngoài đường, thấy lỗi gì của dân dù nhỏ cũng
không buông tha. Quan lại không có tiền đút lót không duyệt bất cứ thứ gì. Đến
bọn văn thư, nha lại cũng cậy mình ở cửa quan sách nhiễu đòi tiền dân. Các con
buôn thi nhau nhập hàng độc hại giá rẻ về trà trộn bán cho dân chúng….
Cứ
như tể tướng Bạo ngần ấy năm nắm việc quốc gia quyết định bán quặng nhôm cho nước
Tần bất chấp các lão thần, trí sĩ ngăn cản. Nhân cái việc đó mà bọn quan lại địa
phương cũng thấy có tài nguyên, khoáng sản gì là cho khai thác bừa bãi bán cho
gian thương nước ngoài..
Nhưng
cơ hội kiếm tiền nhiều nhất và lớn nhất đương nhiên thuộc về tể tướng, bởi ngài
coi soát việc kinh tế trong triều. Một lời của ngài, một chữ ký của ngài kẻ
khác có được hàng vạn lượng. Những kẻ hám lợi vây quanh tể tướng để nhận chút
mưa móc. Lâu ngày chúng đông dần lên. Nghiễm nhiên thành băng đảng, kẻ đứng đầu
băng đảng ấy tất là tể tướng“ (ĐVCD- Sách đã dẫn)
Qủa thực, đối với chế độ đương thời, như một lần tôi đã viết: Bán đất bán rừng đi đến bán nước bán cả linh hồn có một khoảng cách rất gần.
*Một
số nhược điểm và hạn chế.
Tác
phẩm nào cũng vậy, có hay thì chắc chắn phải có dở. Và Đại Vệ
Chí Dị cũng không nằm ngoài lẽ thông thường đó.
Ta
có thể thấy, nối dài mạch truyện (Đại Vệ Chí Dị) là những câu
chuyện được truyền khẩu trong dân gian, hoặc những sự việc thực đã và
đang xảy ra trong xã hội, mà đã được nghe, hay bắt gặp. Do vậy, khi
đọc dòng đầu, ta đã biết trước được diễn biến và kết quả của câu
chuyện. Cho nên, dường như không gây được sự bất ngờ, hứng thú cho
người đọc. Truyện, tiểu thuyết cũng như thể thao vậy, kết quả biết
trước khi vào thi đấu tranh tài, thì không có gì buồn chán bằng.
Vì
một lý do nào đó, người viết có thể giả văn phong, mượn thời
cuộc…nhưng không thể sao chép, copy tình tiết, câu chuyện từ tác phẩm
khác thành của mình. Đọc đoạn văn dưới đây, bắt gặp hình ảnh Lưu
Bị, Tào Tháo cho ta cảm giác rất nhàm, nhợt nhạt. Và có thể nói,
nó hoàn toàn không có giá trị về nội dung, tư tưởng, hoặc một tiếng
cười hay một chút gì đó đọng lại trong lòng người:
“Lúc
ấy Vương sắp đi Cờ Hoa, Sáng Quyết và Quảng Phệ hội nhau uống rượu sau vườn phủ
bộ Binh. Rượu ngà ngà Sáng Quyết hỏi.
– Theo đại nhân, thiên hạ ngày nay ai là anh hùng.?
Quảng Phệ đáp.
– Bọn Bạo, Cả Sáng đang đương thời là anh hùng, ngoài ra có Xuân Phước, Đường Hoang cũng đáng kể tên. Thêm nữa phải kể đến Bốn Sương người mạn Nam bộ cũng đáng mặt anh hùng.
Sáng Quyết cười nói.
– Bạo tham nhũng không được lòng dân, Cả Sáng lập lờ gió chiều nào che chiều ấy không dám quyết, Bốn Sang chỉ võ miệng mà không có thực lực. Bọn Xuân Phước, Đường Hoang là phường cơ hội mà lên, trong triều không ai phục. Tất cả lũ ấy không đáng gọi là anh hùng.
Quảng Phệ hỏi.
– Vậy còn ai nữa.?
Sáng Quyết ghé tai Quảng thì thầm.
– Anh hùng trong thiên hạ chỉ có mỗ và tướng quân mà thôi.
Quảng Phệ nghe xong, ngửa cổ lên trời cười khặc khặc, vỗ đùi đét cái hỏi.
– Đại thần kinh thành đã nói vậy, chắc có ý rồi.?“(Đại Vệ Chí Dị-sách đã dẫn)
– Theo đại nhân, thiên hạ ngày nay ai là anh hùng.?
Quảng Phệ đáp.
– Bọn Bạo, Cả Sáng đang đương thời là anh hùng, ngoài ra có Xuân Phước, Đường Hoang cũng đáng kể tên. Thêm nữa phải kể đến Bốn Sương người mạn Nam bộ cũng đáng mặt anh hùng.
Sáng Quyết cười nói.
– Bạo tham nhũng không được lòng dân, Cả Sáng lập lờ gió chiều nào che chiều ấy không dám quyết, Bốn Sang chỉ võ miệng mà không có thực lực. Bọn Xuân Phước, Đường Hoang là phường cơ hội mà lên, trong triều không ai phục. Tất cả lũ ấy không đáng gọi là anh hùng.
Quảng Phệ hỏi.
– Vậy còn ai nữa.?
Sáng Quyết ghé tai Quảng thì thầm.
– Anh hùng trong thiên hạ chỉ có mỗ và tướng quân mà thôi.
Quảng Phệ nghe xong, ngửa cổ lên trời cười khặc khặc, vỗ đùi đét cái hỏi.
– Đại thần kinh thành đã nói vậy, chắc có ý rồi.?“(Đại Vệ Chí Dị-sách đã dẫn)
Ngoài
bắt chước, mô phỏng những tình tiết, hành động nhân vật từ những
truyện cổ, hay phim truyền hình Trung Quốc ta còn bắt gặp khá nhiều
những câu, những thán từ có gốc gác của các nhân vật trong Tam Quốc
Chí: “ Trời đã sinh ra ta điên, sao nỡ còn sinh ra kẻ dại“.
Có
lẽ, những đoạn văn trên chỉ gây được tiếng cười cho những độc giả
hời hợt, lười suy nghĩ. Như nói về phim ảnh thời nay, gọi là mì ăn
liền là vậy.
Và
thiết nghĩ, nếu như tác giả lược bỏ những đoạn văn này, tôi tin cuốn
sách sẽ thật và giá trị hơn.
Tuy
sử dụng văn phong cổ, nhưng tác giả mang nhiều khẩu ngữ (văn nói) chưa
chưng cất cho thật chín vào trang viết của mình, do vậy có những câu,
từ lặp lại trong cùng một đoạn văn ngắn. Đó là điều đại kỵ trong
văn chương. Ta đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ điều đó:
“…Làm
đại tướng cầm quân, bất chấp mệnh Vua đi sứ cam kết đủ điều. Đã thế lại đem
binh hội ước với Tề ở biên giới, công khai nhận lễ vật của địch. Chuyện làm phản
chỉ ngày một ngày hai. Nay hắn đang mật giao với Tề và đại thần Sáng Quyết, chắc
làm phản ngày một ngày hai…“(Đại Vệ Chí Dị-sách đã dẫn)
Cũng
từ nguyên nhân đó, ta có thể thấy Đại Vệ Chí Dị có khá nhiều câu
văn tối nghĩa: “Có một thương gia thấy hiệu sách của Hàn ở vị
thế đẹp để mở lầu xanh, bèn hỏi mua lại. Hàn nhất định không bán.“
(trang 316)
Với
câu văn này, xin phép tác giả, tôi thử bỏ kết từ (để) và thay vào
đó tính từ (có thể) có lẽ câu văn tròn trịa, rõ nghĩa hơn
chăng: “Có một thương gia thấy hiệu sách của Hàn ở vị thế
đẹp(có thể) mở lầu xanh, bèn hỏi mua lại. Hàn nhất định không bán.“
Có
thể nói, tác giả sử dụng từ ngữ, nhất là các danh từ không nhất
quán theo lối văn phong cổ, làm cho câu văn (đôi khi) bị sượng. Có lẽ,
từ thời Tây Chu, Vệ Quốc kéo dài đến những thời phong kiến sau này,
chỉ có chiếu sắc phong Học sĩ, Đại học sĩ, chứ làm quái gì đã có
phong học hàm “làm giáo sư“. Không rõ, đây là do sơ xuất, hay chủ định
của tác. Nhưng với tôi, trong một tác phẩm từ ngữ phải nhất quán,
nhất là nó được viết bằng văn phong cổ. Một tác phẩm hay, dứt khoát
không thể “đầu Ngô mình Sở“ được:
“Tứ
Tấn nói.
-
Bạo có hai hổ tướng, một là Tô Điền phó thương thư bộ Hình, hai là Chính Vượng
phó thương thư bộ Binh. Đó là hai cánh của Bạo, chặt được hai cánh này Bạo chỉ
còn là con gà, muốn thịt thế nào cũng được.
Vương
bảo:
-
Nếu vậy ta sắc phong cho Tô Điền làm giáo sư, đưa vào danh sách ứng cử đại thần
nghị chính. Tô Điền sẽ lưỡng lự đóng quân, không dám theo điều động của Bạo.
Chính Vượng thấy Điền được phong chức mà mình không được dòm tới, trong lòng sẽ
sinh đố kỵ với Điền mà không còn lòng dạ dụng binh nữa. (Đại Vệ Chí
Dị-Sách đã dẫn)
Có thể nói, viết văn là công việc nặng nhọc, viết chân dung, phê bình còn nặng cái đầu hơn nữa. Dù chỉ cảm nhận của cá nhân, nhưng để gọi được hồn vía, tư tưởng nhà văn và tác phẩm là điều không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, có những tác giả, tác phẩm đọc xong, tự bật ra ý tưởng có thể đặt bút viết được ngay. Và ngược lại có nhà văn rất tài năng, tên tuổi, đọc và suy nghĩ cả năm trời, vẫn chưa (hay không) tìm ra mạch cũng như hướng đi cho bài viết. Cho nên, khi nhận được Đại Vệ Chí Dị, với lời đề nghị đọc và viết trong vài, ba tuần, quả thực thời gian quá eo hẹp đối với một người phải làm việc ngày 11 giờ, kể cả thứ bảy, chủ nhật như tôi. Hơn nữa, muốn giới thiệu về một cuốn sách, người viết không chỉ đọc một cuốn sách đó, mà buộc phải đọc nhiều tác phẩm khác của tác giả ấy…
Tuy
nhiên, nhà xuất bản Vipen đã nhờ, tôi sẽ phải viết. Mà đã viết thì
viết đến tận cùng sự suy nghĩ của mình. Và bài viết này, được ra
đời ngay trên Theke quán rượu, nơi tôi làm việc, khi vắng khách. Đây
cũng chỉ là suy nghĩ chủ quan cá nhân của tôi về Đại Vệ Chí Dị,
rất có thể không đúng. Nhưng tôi nghĩ, dù sai hay đúng, nó cũng giúp
được phần nào cho bạn đọc muốn tìm hiểu, hay tiếp cận, và tự đánh
giá tác phẩm, tư tưởng tác giả cũng như chính sử Việt Nam đương đại,
một cách chân thật, chính xác nhất.
Leipzig
ngày 9-5-2016
© Đỗ
Trường
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment