Người Buôn Gió
Jan 8, '12 1:15 PM
Ngày bé xem bộ phim có tên Người Nông Dân Nổi Dậy, nhân vật là một chàng nông dân tên là Giắc Cu. Đêm bỗng dưng chả ngủ được, chuyện xưa, chuyện nay cứ lẫn lộn trong đầu. Ngày trước tivi hay chiếu nhiều bộ phim, vở kịch tả lại những cuộc nông dân khởi nghĩa nhiều lắm. Giờ chỉ thấy toàn phim Trung Quốc có vua chúa đẹp trai, hào hoa, anh minh, tốt bụng...mà thôi.
Xưa thời nhà Nguyễn, quan Nguyễn Công Trứ đi khai khẩn đất đồng chua nước mặn. Công việc ấy được kể lại thành câu chuyện hay như huyền thoại. Đó là mỗi vị đậu trạng nguyên được vua mời vào vườn thượng uyển cho chọn một bông hoa sau đó vua cho đúc một bông hoa bằng vàng thật tặng cho tân trạng nguyên. Công Trứ đỗ trạng nguyên vào vườn thượng uyển ngắm nghía bao lâu rồi mới chọn bông hoa chuối. Vua căm lắm nhưng lệ đã thế rồi, nghiến răng mà sai người đúc bông hoa chuối bằng vàng ban cho Trứ.
Trứ xin vua cho làm quan mạn Thái Bình, nơi đồng chua nước mặn, thuở ấy còn hoang hóa, chỉ có dân đi biển cầm cự nơi đất ấy. Thoắt đã mấy năm. Vua Nguyễn vẫn nhớ cái vụ hoa của tên tham quan Công Trứ hồi nọ, bèn sai khâm sai đại thần mang thanh gươm tiền trảm hậu tấu với ý rằng là cứ thấy lỗi thì chặt phăng đầu mang về đây.
May cho Trứ và cũng may cả cho triều đình. Tuy sai người đi với định kiến không lành, nhưng vị khâm sai mà vua sai đi là người trung tín, nhân nghĩa, có kiến thức. Khâm sai đi quan sát đồng ruộng, nhìn đê điều ngăn mặn, mương tưới tiêu, lúa con gái xanh rì bát ngát, ruộng đồng thẳng cánh cò bay. Đêm đó khâm sai ngồi uống rượu với Trứ bên thư phòng giản dị, nghe Trứ tâm sự chuyện chặt từng bông hoa chuối vàng để mộ dân khai điền, lập ruộng, đắp đê ngăn mặn, dẫn nước mương tưới ruộng đồng, thau chua, rửa mặn, đóng kè ...hàng núi công việc để có được nơi đủ điều kiện để dân chúng an cư. lập nghiệp tạo nên một vựa lúa trù phú ở nơi hoang hóa ngày xưa. Khâm sai đại thần chạnh lòng thấy thanh gươm vưa đưa theo bọc trong vải nặng trĩu. Sau đó khâm sai đại thần về tâu vua rõ sự việc. Vua Nguyễn vì thế mà hiểu lòng Trứ hơn.
Trở lại với kịch bản của Giắc Cu nông dân thời lơ tơ mơ nào đó. Chàng nông dân đi khai khẩn vùng nước lợ hoang vu từ hồi còn trai trẻ. Cả cuộc đời chàng gắn bó với vùng khai khẩn, lấy vợ, sinh con. Mồ hôi nước mắt đổ ròng rã năm này qua năm khác ròng rã 30 năm gần hết cuộc đời, nhìn lại cái trang trại cũng tàm tạm. Mọi vốn liếng và trăm nghìn lo toan tính toán lấy ngắn , nuôi dài vượt quá bão tố, thiên tai nay cũng đơm hoa, kết trái. Chàng nông dân tóc đã hoa tiêu cũng cảm ơn trời đất, triều đình đã cho chàng được bỏ công sức và nhận lấy thành quả của mình làm ra.
Các đời quan lại ai cũng cảm thông cho chàng nghị lực. Chàng là một công dân tốt, lo toan chí thú làm ăn bằng mồ hôi, sức lực và kiến thức của mình. Người dân nào cũng như thế thì quan chả mừng.
Thế nhưng quan thì vài năm đổi một lần. Quan trẻ sau này lên nhậm chức, chỉ nhìn thấy thằng nông dân nào đó tóc pha sương bỗng nhiên sở hữu cả khu trang trại đẹp như tranh, nào ao cá, cây ăn quả. Quan nghĩ cả đất trời này thuộc về triều đình, mà quan lại là đại diện cho triêu đình, không thể để một thằng nông dân sung túc hưởng lợi trên mảnh đất phì nhiêu, màu mỡ của triều đình được. Quan tư chất thông minh, được đào tạo bài bản ngón nghề cải tạo và đấu tranh giai cấp, lại được trang bị bằng một mớ nghị định, luật..lằng nhằng chồng chéo mà quan muốn dùng cái nào vào việc nào cũng có, thế là quan bảo Giắc Cu nông dân là nộp lại đất ấy để quan dùng vào việc khác theo quyết định, thông tư, nghị định số Lã Mã lệnh đại khái nói rằng
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do triều đình thống nhất quản lý, nay để tiện việc quản lý căn cứ theo nghị định ngày lơ mơ, tháng lờ mờ, năm ấm ớ thu hồi khoảnh nọ để giao cho người khác.
Nông dân cự lại, kêu rằng đất tôi khai hoang, cả đời người vợ chồng con cái bỏ công sức vào đây. Cuộc sống máu thịt gắn liền, sao lại bảo thu hồi là thế nào.
Quan đập bàn quát.
- Tao thu là thu cho triều đình, đất đai nào của mày, không có triều đình đánh ngoại xâm thì mày có đất được không. Liệu mày có sống được không mà đòi đất với đai. Đồ vô ơn
Nông dân cãi.
- Nói thế nghe không được, triều nào thì triều cũng phải để đất cho dân làm ăn.Cũng phải để cho dân có đường sống. Những người làm ăn lương thiện, đổ mồ hồi, sôi nước mắt, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để nuôi thân tự thân mình nuôi mình. Triều đại nào mà dân chả phải tự nuôi dân.
Quan nạt nộ.
- Mày định đi ngược đường lối , chinh sách đã đề ra à. Không nói nhiều , mai tao cho quân xuống tịch thu.
Nông dân về nhà, nhìn lúa đang nên, cây ăn quả giờ bắt đầu bén đất trổ hoa, cá giờ cũng quen nước nhởn nhơ thả tăm trong ao....mấy chục năm trước chàng đến đây chỉ có nước mặn xâm xấp rặt loài cây sú vẹt cho cò đậu. Tưởng không bao giờ sống được trên đất này, thế mà qua mấy chục năm cần cù, mẫn cán chàng cũng thắng được thiên nhiên để tạo nên cơ ngơi này. Chàng thức trắng đêm nhìn cái tờ lệnh của quan có triện đỏ. Than ôi , chỉ cái giấy này thôi, quan viết một nhoáng là xong mà đổi được cả cuộc đời, cả cơ nghiệp mồ hồi, máu, nước mắt của chàng. Nông dân thấy chua xót về phận của mình không được sống trong thời phong kiến hà khắc ở nước nào đó xa xôi như Trứ, may ra Vua có cố chấp thì cũng biết nhận ra sự thật, còn có tôi hiền như quan khâm sai trình lại cho vua rõ
Chàng tính mai chấp hành lệnh quan, vợ chồng con cái dắt nhau ra đường kiếm sống, làm lại từ đầu khi mà mái tóc đã pha sương. Bệnh tật do những năm tháng dãi dầu mưa nắng trên đồng cộng với tuổi già, chàng dắt díu gia đình phiêu bạt, rồi hôm nao qua đây nhìn thấy một khu sinh thái, biệt thự ven biển của đại gia nào đó.....
Chàng cứ nghĩ lan man chả mấy chốc gà đã gáy báo sáng..
Xưa thời nhà Nguyễn, quan Nguyễn Công Trứ đi khai khẩn đất đồng chua nước mặn. Công việc ấy được kể lại thành câu chuyện hay như huyền thoại. Đó là mỗi vị đậu trạng nguyên được vua mời vào vườn thượng uyển cho chọn một bông hoa sau đó vua cho đúc một bông hoa bằng vàng thật tặng cho tân trạng nguyên. Công Trứ đỗ trạng nguyên vào vườn thượng uyển ngắm nghía bao lâu rồi mới chọn bông hoa chuối. Vua căm lắm nhưng lệ đã thế rồi, nghiến răng mà sai người đúc bông hoa chuối bằng vàng ban cho Trứ.
Trứ xin vua cho làm quan mạn Thái Bình, nơi đồng chua nước mặn, thuở ấy còn hoang hóa, chỉ có dân đi biển cầm cự nơi đất ấy. Thoắt đã mấy năm. Vua Nguyễn vẫn nhớ cái vụ hoa của tên tham quan Công Trứ hồi nọ, bèn sai khâm sai đại thần mang thanh gươm tiền trảm hậu tấu với ý rằng là cứ thấy lỗi thì chặt phăng đầu mang về đây.
May cho Trứ và cũng may cả cho triều đình. Tuy sai người đi với định kiến không lành, nhưng vị khâm sai mà vua sai đi là người trung tín, nhân nghĩa, có kiến thức. Khâm sai đi quan sát đồng ruộng, nhìn đê điều ngăn mặn, mương tưới tiêu, lúa con gái xanh rì bát ngát, ruộng đồng thẳng cánh cò bay. Đêm đó khâm sai ngồi uống rượu với Trứ bên thư phòng giản dị, nghe Trứ tâm sự chuyện chặt từng bông hoa chuối vàng để mộ dân khai điền, lập ruộng, đắp đê ngăn mặn, dẫn nước mương tưới ruộng đồng, thau chua, rửa mặn, đóng kè ...hàng núi công việc để có được nơi đủ điều kiện để dân chúng an cư. lập nghiệp tạo nên một vựa lúa trù phú ở nơi hoang hóa ngày xưa. Khâm sai đại thần chạnh lòng thấy thanh gươm vưa đưa theo bọc trong vải nặng trĩu. Sau đó khâm sai đại thần về tâu vua rõ sự việc. Vua Nguyễn vì thế mà hiểu lòng Trứ hơn.
Trở lại với kịch bản của Giắc Cu nông dân thời lơ tơ mơ nào đó. Chàng nông dân đi khai khẩn vùng nước lợ hoang vu từ hồi còn trai trẻ. Cả cuộc đời chàng gắn bó với vùng khai khẩn, lấy vợ, sinh con. Mồ hôi nước mắt đổ ròng rã năm này qua năm khác ròng rã 30 năm gần hết cuộc đời, nhìn lại cái trang trại cũng tàm tạm. Mọi vốn liếng và trăm nghìn lo toan tính toán lấy ngắn , nuôi dài vượt quá bão tố, thiên tai nay cũng đơm hoa, kết trái. Chàng nông dân tóc đã hoa tiêu cũng cảm ơn trời đất, triều đình đã cho chàng được bỏ công sức và nhận lấy thành quả của mình làm ra.
Các đời quan lại ai cũng cảm thông cho chàng nghị lực. Chàng là một công dân tốt, lo toan chí thú làm ăn bằng mồ hôi, sức lực và kiến thức của mình. Người dân nào cũng như thế thì quan chả mừng.
Thế nhưng quan thì vài năm đổi một lần. Quan trẻ sau này lên nhậm chức, chỉ nhìn thấy thằng nông dân nào đó tóc pha sương bỗng nhiên sở hữu cả khu trang trại đẹp như tranh, nào ao cá, cây ăn quả. Quan nghĩ cả đất trời này thuộc về triều đình, mà quan lại là đại diện cho triêu đình, không thể để một thằng nông dân sung túc hưởng lợi trên mảnh đất phì nhiêu, màu mỡ của triều đình được. Quan tư chất thông minh, được đào tạo bài bản ngón nghề cải tạo và đấu tranh giai cấp, lại được trang bị bằng một mớ nghị định, luật..lằng nhằng chồng chéo mà quan muốn dùng cái nào vào việc nào cũng có, thế là quan bảo Giắc Cu nông dân là nộp lại đất ấy để quan dùng vào việc khác theo quyết định, thông tư, nghị định số Lã Mã lệnh đại khái nói rằng
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do triều đình thống nhất quản lý, nay để tiện việc quản lý căn cứ theo nghị định ngày lơ mơ, tháng lờ mờ, năm ấm ớ thu hồi khoảnh nọ để giao cho người khác.
Nông dân cự lại, kêu rằng đất tôi khai hoang, cả đời người vợ chồng con cái bỏ công sức vào đây. Cuộc sống máu thịt gắn liền, sao lại bảo thu hồi là thế nào.
Quan đập bàn quát.
- Tao thu là thu cho triều đình, đất đai nào của mày, không có triều đình đánh ngoại xâm thì mày có đất được không. Liệu mày có sống được không mà đòi đất với đai. Đồ vô ơn
Nông dân cãi.
- Nói thế nghe không được, triều nào thì triều cũng phải để đất cho dân làm ăn.Cũng phải để cho dân có đường sống. Những người làm ăn lương thiện, đổ mồ hồi, sôi nước mắt, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để nuôi thân tự thân mình nuôi mình. Triều đại nào mà dân chả phải tự nuôi dân.
Quan nạt nộ.
- Mày định đi ngược đường lối , chinh sách đã đề ra à. Không nói nhiều , mai tao cho quân xuống tịch thu.
Nông dân về nhà, nhìn lúa đang nên, cây ăn quả giờ bắt đầu bén đất trổ hoa, cá giờ cũng quen nước nhởn nhơ thả tăm trong ao....mấy chục năm trước chàng đến đây chỉ có nước mặn xâm xấp rặt loài cây sú vẹt cho cò đậu. Tưởng không bao giờ sống được trên đất này, thế mà qua mấy chục năm cần cù, mẫn cán chàng cũng thắng được thiên nhiên để tạo nên cơ ngơi này. Chàng thức trắng đêm nhìn cái tờ lệnh của quan có triện đỏ. Than ôi , chỉ cái giấy này thôi, quan viết một nhoáng là xong mà đổi được cả cuộc đời, cả cơ nghiệp mồ hồi, máu, nước mắt của chàng. Nông dân thấy chua xót về phận của mình không được sống trong thời phong kiến hà khắc ở nước nào đó xa xôi như Trứ, may ra Vua có cố chấp thì cũng biết nhận ra sự thật, còn có tôi hiền như quan khâm sai trình lại cho vua rõ
Chàng tính mai chấp hành lệnh quan, vợ chồng con cái dắt nhau ra đường kiếm sống, làm lại từ đầu khi mà mái tóc đã pha sương. Bệnh tật do những năm tháng dãi dầu mưa nắng trên đồng cộng với tuổi già, chàng dắt díu gia đình phiêu bạt, rồi hôm nao qua đây nhìn thấy một khu sinh thái, biệt thự ven biển của đại gia nào đó.....
Chàng cứ nghĩ lan man chả mấy chốc gà đã gáy báo sáng..
.
.
.
No comments:
Post a Comment