Wednesday, September 16, 2009

VỀ CHỦ THUYẾT PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM (ĐẶNG QUỐC BẢO)

VỀ CHỦ THUYẾT PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM

ĐẶNG QUỐC BẢO

15-9-09
http://www.viet-studies.info/kinhte/DangQuocBao_ChuThuyetPhatTrien.htm

Tóm lược ý kiến đồng chí Đặng Quốc Bảo về đề tài chủ thuyết phát triển của Việt Nam do Hội đồng lý luận chủ trì

Đề tài được đặt ra đúng lúc, vấn đề rất lớn, rất phức tạp, rất ‘xương xẩu’. Tôi không có tham vọng bàn đền tòan bộ nội dung, càng không sa lầy vào những vấn đề thuật ngữ, chỉ xin gợi ý có tính chất phương pháp tiếp cận.
Có 4 vấn đề tôi quan tâm và lưu ý nếu không có quan điểm đúng đắn, khó mà phát hiện cái “linh hồn” của sự tìm tòi.

Vấn đề thứ nhất, vấn đề chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản đã hoàn thành xong sứ mạng lịch sử chưa? Nó còn là lực lượng thúc đẩy lịch sử không và đã dịch chuyển vào chu kỳ tan rã cuối cùng chưa, chu kỳ mà Hội đồng lý luận xác định là vào khoảng 40 đến 50 năm nghĩa là vào giữa thế kỷ 21.
Tôi cho rằng sau 200 năm thai nghén, chủ nghĩa tư bản đã ra đời vào khoảng 250 năm, đã trải qua rất nhiều cuộc khủng hoảng, đặc biệt 3 cuộc khủng hoảng lớn: cuộc khủng hoảng 1866-1873, cuộc khủng hoảng 1929-1933, và cuộc khủng hoảng hiện nay từ năm 2008- có thể kéo dài không dưới từ 3 đến 5 năm. Qua mỗi cuộc khủng hoảng chủ nghĩa tư bản đã biến hóa không còn ở dạng nguyên thủy nữa. Nhiều học giả hiện đại cho rằng chủ nghĩa tư bản đã và đang biến thành không phải là nó nữa. Đây là ý kiến rất đáng nghiên cứu. Tôi xin phép thử phân tích tìm ra một kết luận thỏa đáng
Sau cuộc khủng hoảng lớn nhất 1866-1873, Mác hết sức chú ý đến 3 sự phát triển mới:
-Sự ra đời của công ty cổ phần
-Sự tách rời giữa chiếm hữu xí nghiệp tư bản và sự quản lý kinh doanh. Nhiệm vụ kinh doanh được giao cho các nhà quản lý chuyên nghiệp
-Sự dịch chuyển của các công ty tài chính, các ngân hàng tới quy mô mới, to lớn hơn có khả năng huy động vốn tiết kiệm của toàn bộ xã hội để rót vào vốn đầu tư phát triển các xí nghiệp tư bản. Các xí nghiệp không chỉ dựa vào vốn tự có tích lũy được mà chuyển sang chủ yếu huy động vốn của toàn xã hội. Chủ nghĩa tư bản phụ thuộc rất lớn vào tư bản tài chính.
Với tư chất cực kỳ thông minh và cực kỳ nhạy bén, Mác và Ăng-ghen đã có nhận định cực kỳ sáng tạo. Sự xuất hiện 3 yếu tố trên đặc biệt là yếu tố công ty cổ phần cho phép kết luận CTTB đã dịch chuyển sang một chất lượng mới. Sự chiếm hữu các xí nghiệp tư bản không còn là tư nhân thuần chúng nữa, nó đang trở thành xã hội hóa, “công hóa”, mở ra triển vọng người sản xuất trực tiếp có thể tham gia và chiếm hữu xí nghiệp. Chiếm hữu tư nhân chuyển vào hình thức mới, hình thức chiếm hữu cổ phiếu. Vào nửa sau thế kỷ 20, nhiều nhà kinh tế cho rằng yếu tố này đã dịch chuyển tới một giới hạn mới, giới hạn của CNTB nhân dân trên nền cổ phần hóa phát triển cao độ.
Từ nhận định trên, cùng sự phát triển của hệ thống chính trị “dân chủ nghị viện” đã xuất hiện khả năng mới, khả năng đấu tranh bằng con đường hòa bình, không còn phải đập tan toàn bộ di sản của CNTB xây dựng xã hội từ A đến Z, mà có thể kế thừa và phát triển. Đây là ý tưởng rất cơ bản của Mác và Ăng-ghen vào những năm cuối đời. Mác mất năm 1883. Ăng-ghen tiếp nhận di sản này và thành lập Đảng Xã Hội Dân Chủ (đệ nhị quốc tế vào năm 1889) và chỉ đạo các Đảng Xã Hội Dân Chủ theo hướng này. Kausky Berstein, Plekhanow, Rosa Luxamburg chỉ là những người kế tục và phát triển ý tưởng này. Suốt hơn 1 thế kỷ các Đảng Xã Hội Dân Chủ đã triển khai hướng đi này và đạt thành tựu cực kỳ xuất sắc: đã cải tạo CNTB theo hướng “nhân đạo” hơn, năng động hơn, làm cho CNTB vẫn thích nghi được với thời đại.
Ngày 6/3/1895, trước khi mất 5 tháng (Ăng-ghen mất 5/8/1895), trong lời nói đầu cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, Ăng-ghen đã viết “Lịch sử chứng tỏ chúng ta đang mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là một ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn, không những xóa bỏ những mê muội của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản, phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt.”
Sau cuộc khủng hoảng lần thứ hai 1929-1933, CNTB lại có sự thay đổi lớn. Năm 1936 xuất hiện lý thuyết Keynes (một trong 4 nhà kinh tế lỗi lạc nhất mọi thời đại: Adam Smith, Ricardo, Karl Marx, Keynes) với học thuyết nổi tiếng “kích cầu nuôi dưỡng cung” thực chất là gì? CNTB đã không còn là tư bản tự do cạnh tranh nữa, đã xuất hiện vai trò điều tiết của nhà nước với những cơ chế mới. Có thể tóm tắt 3 đặc điểm cơ chế mới:
-Nhà nước đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc nắm lấy công cụ cực mạnh, tài chính, tiền tệ để ổn định nền kinh tế. Sự tăng cường vai trò các ngân hàng, sự xuất hiện các ngân hàng IMF, WB, ADB v.v… tham gia tích cực quá trình điều tiết kinh tế trên quy mô toàn cầu giúp CNTB ổn định được cục diện kinh tế một thời gian dài (80 năm).
Sự xuất hiện của các xí nghiệp công rất năng động và linh hoạt, một bảo đảm giữ thế ổn định cho kinh tế và xã hội. Nếu quan sát khách quan thì trong tổng GDP của các nước tư bản phát triển tỉ lệ xí nghiệp công là vào khoảng từ 15 đến 20%.
Với sự phát triển kỳ diệu của trí tuệ, kinh tế trí thức ra đời và làm thay đổi cơ cấu xã hội. Tỉ lệ công nhân cổ xanh tức là lực lượng lao động chủ yếu của CNTB sơ khai đã giảm rất đáng kể chỉ còn từ 5% đến 10% trong tổng lao động xã hội và chỉ đóng vai trò ngoại vi sản xuất. Lao động kỹ thuật với trí thức cao đã trở thành lực lượng lao động chủ chốt của xã hội mới, với vai trò tăng lên rất đáng kể của các học giả. Có học giả đánh giá với kinh tế trí thức phát triển và chi phối nền sản xuất thì động lực chủ yếu của xã hội, yếu tố chủ yếu thúc đẩy tiến hóa là “lao động bác học”. Cơ cấu giai cấp đa dạng hơn, phức tạp hơn, xuất hiện các nhóm lợi ích cực kỳ đa dạng.
Về chính trị và xã hội cũng xuất hiện những yếu tố rất mới, có thể lưu ý hai yếu tố cơ bản: một là hình thức dân chủ trực tiếp. Người dân được tạo điều kiện có tiếng nói trực tiếp quyết định thực sự tới những vấn đề lớn nhất của quốc gia. Hai là vai trò ngày càng quan trọng của xã hội dân sự, của các tổ chức phi chính phủ. Có dấu hiệu các tổ chức đa dạng phi chính phủ là hình thức tự quản của xã hội tương lai, nó có thể thay thế phần nào chức năng của nhà nước, làm cho các tổ chức quyền lực của nhà nước gần với nhân dân, buộc phải tôn trọng tiếng nói của nhân dân hơn, đồng thời nó cũng đóng góp thiết thực ngăn chặn quá trình tha hóa của bộ máy quyền lực.
Xã hội các nước tư bản chủ nghĩa đã trở nên năng động hơn, sôi động hơn, đa dạng hơn, với sự thừa nhận tồn tại những ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Sự tôn trọng những ý kiến độc lập làm cho tính chất mở của xã hội rõ nét hơn. Việc thừa nhận sự phát triển nhiều màu sắc, tính độc lập của tư duy đã tạo động lực cho sự phát triển của tư duy. Nhiều ý tưởng mới, nhiều khái niệm, nhiều phạm trù mới, nhiều lý thuyết mới xuất hiện làm cho trí quyển (noosphere) cực kỳ sôi động. Chất lượng tư duy loài người đang dịch chuyển tới một trình độ cao hơn. Tôi muốn nói TBCN mới đã có công giải phóng tư duy con người, báo hiệu đã xuất hiện những yếu tố mới của một nền văn minh mới, văn minh trí tuệ đang được thai nghén sẽ phát triển trở thành xu thế nền tảng của sự tiến hóa mới của nhân loại. CNTB mới đã sáng tạo nên một hệ thống giáo dục hiện đại với nền tảng triết lý mới, một vườn ươm tài năng mới cực kỳ hiệu quả. Nó đã sở hữu đến 90% trong số 200 trung tâm giáo dục chất lượng nhất. Nó gần như độc quyền sáng tạo các giải thưởng khoa học (giải Nobel) và giải thưởng toán học (Giải thưởng Field).
CNTB mới cũng đạt nhiều thành tựu trong việc dịch chuyển xã hội sang một xã hội với ý thức trách nhiệm xã hội sâu hơn, cao hơn, như tổ chức Liên Hợp Quốc và các tổ chức phụ thuộc của nó với chức năng góp phần có hiệu lực vào sự tiến hóa chung của nhân loại, kiềm chế các quyền lực ích kỷ cản trở bước tiến của nhân loại.
CNTB hiện đại cũng đã giải quyết thành công ở mức độ nhất định mâu thuẫn giai cấp, làm dịu bớt cái không khí căng thẳng giữa giai cấp công nhân và CNTB, làm cho thành thị và nông thôn gần gủi nhau hơn, dần dần xóa bỏ ranh giới công nhân và nông dân, thu hẹp khoảng cách giữa lao động chân tay và trí óc, gia tăng tính chất nhân đạo của xã hội.
Tất nhiên cũng còn vô vàn cái bất lực, cái tiêu cực. Số phận con người cực kỳ bấp bênh, sự phân hóa giàu nghèo, sự đối lập giữa một bên là xa hoa vô độ, một bên là nghèo đói túng thiếu. Điều kiện sống của con người trở nên đặc biệt khó khăn hơn, nhiều mối đe dọa cuộc sống trên mọi bình diện, sự ích kỷ và thiếu trách nhiệm của những thế lực quyền lực v.v… sự vô cảm của những kẻ điên khùng có thể gây mọi tai họa cho nhân loại bất kỳ lúc nào.

Tôi xin phép được chú thích tuyên ngôn năm 1965 của CNTB hiện đại:
Năm 1965, đại diện các nước tư bản phát triển nhất đã tập hợp nhau lại tại thành phố Philadelphia (Mỹ) họp đại hội CNTB thế giới, ra tuyên ngôn: Tiếp thu kinh nghiệm nhân dân làm chủ của CNXH thực hiện CNTB phúc lợi suốt đời (đảm bảo cuộc sống của người dân từ khi sinh ra cho đến khi chết.) Tiếp thu kinh nghiệm kế họach hóa XHCN, thực hiện CNTB kế hoạch có sự can thiệp của nhà nước (Biện Hồng Đăng “Phương lược vận doanh tư bản” – Nhà xuất bản cải cách, báo in 1997 trang 227, bản tiếng Hoa).
Ngày 3/6/2000, tại hội nghị cấp cao ở Béclin (có Tony Blair nguyên thủ tướng Anh, đại diện Công Đảng Anh và nguyên tổng thống Mỹ Clinton tham dự), Công báo hội nghị nêu: “Chúng tôi tin rằng kinh tế thị trường phải kết hợp trách nhiệm xã hội từ đó tạo ra kinh tế tăng trưởng, công ăn việc làm đầy đủ và sự ổn định lâu dài, còn nhà nước trên phương diện kinh tế vĩ mô phải duy trì ổn định, ủng hộ các biện pháp tài vụ công kiện toàn, kiên quyết ngăn chặn lạm phát, nhà nước cũng phải thúc đẩy thị trường tiền tệ ổn định, nâng cao độ minh bạch và đề xướng cạnh tranh công bằng (trích trong Con đường thứ ba và nước Anh mới, nhà xuất bản Phương Đông bản in lần thứ 1, tiếng Hoa, 12.2001, trang 290-291).
Cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây (bắt đầu từ 2008) gây tai họa cho nhân loại trên toàn bộ mọi bình diện của cuộc sống, đặc biệt cho những người nghèo, các nước chậm phát triển. Nhưng tôi vẫn tin rằng nhân loại nói chung và CNTB hiện đại nói riêng rồi cũng sẽ ra khỏi được khủng hoảng tuy phải chịu một tổn thất kinh khủng, chưa từng thấy, rồi cũng sẽ sáng tạo được một lý thuyết mới ở tầm cao hơn, sáng tạo được cơ chế mới ở mọi nơi, mọi khu vực cũng như trên toàn cầu mở đầu cho một chu kỳ mới phát triển năng động hơn.
CNTB hiện đại đã và sẽ suy yếu hơn, cấu trúc sẽ có sự thay đổi, bố trí lực lượng sẽ thay đổi, cường quốc mạnh nhất đã và sẽ suy yếu, cục diện đa trung tâm đang xuất hiện, các thế lực mới đang xuất hiện, vị trí của các nước đang phát triển sẽ ngày càng được khẳng định, đặc biệt là vị trí của Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin, ASEAN (trong đó có Việt Nam). Nhưng có một điều cần ghi nhận: CNTB sẽ biết cách thích ứng, nó chưa tan vỡ, nó vẫn là một chủ thể chi phối quá trình phát triển và tiến hóa của nhân loại, chưa xảy ra quá trình tan rã cuối cùng. Giai cấp công nhân chưa sẵn sàng và không đủ lực lượng để tự mình đánh đổ CNTB bằng một đòn quyết định cuối cùng khai tử CNTB thực hiện sự quá độ sang CNXH (mô hình Lê Nin) mà là Hợp tác, đấu tranh, kiềm chế, kế thừa và phát triển.

Vấn đề thứ hai:

a/ Có thể xây dựng CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCH?
Trả lời của lịch sử: CNTB vẫn còn có tác dụng thúc đẩy lịch sử. Phải thừa nhận yếu tố tư bản là cần thiết. Việc thừa nhận vai trò sở hữu tư nhân, vai trò đa sở hữu, vai trò của các doanh nghiệp tư bản dưới các hình thức khác nhau, thậm chí cả vai trò công ty xuyên quốc gia tư nhân là cần thiết, rất cần thiết, có thể nói đóng cả vai trò là lực lượng xung kích để cạnh tranh trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Việc Đảng ta mở cửa mời các công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn tài chính xuyên quốc gia, việc Đảng ta chủ trương đổi mới sớm gia nhập WTO, thực hiện sự liên kết với khối ASEAN, thực hiện hội nhập quốc tế, việc bắt tay đối tác chiến lược với Ấn Độ, Nhật Bản v.v… là chính sách hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Đây là sự dịch chuyển có tính chiến lược lâu dài chứ không phải là chiến thuật tạm lùi một bước. Chiến lược này còn phát triển các hình thức bắt tay với các nước tư bản hiện đại, các tập đoàn tư bản mạnh nhất, còn rộng mở nữa, tất nhiên vẫn phải nằm trong quỹ đạo chúng ta kiểm soát được.
Nói tóm lại, yếu tố TBCN thâm nhập vào cơ thể kinh tế của chúng ta, đã là một bộ phận cực kỳ quan trọng, tạo động lực phát triển của Việt Nam.

b/Có phải thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB sang CNXH theo học thuyết Lênin (mô hình Xô viết)?
Phải có sự tìm tòi mới, thực tế và khoa học.
Tôi khẳng định có sự dịch chuyểnt ừ CNTB vào tương lai theo hướng xã hội tiến bộ hơn, giàu có hơn, nhân đạo hơn, bền vững hơn là điều đang xảy ra và sẽ phải xảy ra. Song nó đa dạng, không có một hình thức duy nhất. Mô hình CNXH kiểu Xô viết qua thực nghiệm đã thất bại. Nếu có mô hình cái gọi là CNXH thì sẽ có màu sắc khác, không thể là mô hình lấy đấu tranh giai cấp làm động lực, lấy công hữu là hình thức sở hữu chi phối, lấy chuyên chính vô sản làm hình thức quản lý duy nhất… Nhân loại trong đó có Việt Nam đang tìm tòi, cần tổng kết, rút ra kết luận một cách sáng tạo.
Đó là cái đòi hỏi đề án này phải trả lời. Bên cạnh mô hình XHCN kiểu mới, nhân loại đang tìm tòi qua nhiều mô hình đa dạng, rất khác nhau, như mô hình Thụy Điển, mô hình các nước Bắc Âu, môi hình Ôxtrâylia, mô hình Đức, mô hình các nước NIC châu Á . . . Có thể nói tất cả còn đang tìm tòi theo hướng có nhiều con đường dẫn tới tương lai, rộng rãi thênh thang, chứ không phải là chỉ có một con đường hẹp, duy nhất.
Chúng ta có quyền thử nghiệm con đường của chúng ta. Các dân tộc khác cũng đang tìm con đường của họ. Phải thừa nhận tính đa dạng của sự tồn tại, phát triển và tiến hóa. Không nên vội vã tuyên bố chúng ta đã thành công trong việc sáng tạo xã hội XHCN tương lai rồi, và kết luận đó là mô hình chuẩn mực, có tính chung cho cả nhân loại. Và có ai đó nghĩ theo kiểu khác thì bị lên án là “xét lại” “diễn tiến hòa bình”.
Còn một vấn đề khác: Có mô hình chủ nghĩa cộng sản như Mác nghĩ không. Tôi nghĩ không có và không thể có mô hình cuối cùng như Mác dự báo vì 3 lý do đơn giản: Trái đất, nơi con người đang sinh sống đang bị dồn vào trạng thái vô cùng khốn đốn. Ở thế kỷ thứ 19, người ta nghĩ rằng tiềm lực trái đất là vô tận, con người có thể thoải mái khai thác một cách vô tư. Nhưng than ôi, nền văn minh công nghiệp mới xuất hiện chưa lâu lắm, mới vài thế kỷ thôi đặc biệt một thế kỷ gần đây đã làm cho trái đất cạn kiệt. Ít nhất loài người đang đối mặt với sự “bất mãn” của thiên nhiên. Các dạng năng lượng cổ điển chỉ có thể thỏa mãn loài người vào khoảng 50 năm nữa thôi. Xuất hiện nguy cơ thiếu nước ngọt trầm trọng. Giới khoa học dự báo vào giữa thế kỷ ít nhất 50% nhân loại thiếu nước ngọt. Một dự báo khác, trái đất không nuôi nổi 12 tỷ con người. Khủng hoảng lương thực sẽ xuất hiện nghiêm trọng vào giữa và đặc biệt vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ này. Cũng xuất hiện sự cạn kiệt hầu hết các nguyên liệu do trái đất cung cấp vào cuối thế kỷ này. Giới học giả cũng dự báo rằng toàn bộ trái đất đã và sẽ bị ô nhiễm nặng nề. Trái đất đang nóng lên, sinh quyển đang bị tổn thất nặng nề. Sự mất cân bằng giữa sự phá phách vô ý thức và có ý thức của con người qua quá trình công nghiệp hóa cổ điển đã vượt qua giới hạn khả năng tự điều chỉnh của trái đất, đang đe dọa sự tồn vong của loài người.
Người ta cũng đã cảnh báo loài người đang đứng trước thảm họa các căn bệnh rất mới đang xuất hiện, đến một lúc nào đó có thể bùng nổ các loại vi khuẩn mới nằm ngoài kiểm soát của con người. Đã xuất hiện những yếu tố lạ đe dọa… sự sống của loài người. Giới học giả đã phát hiện dấu hiện sự “bất tuân thượng lệnh”: cấp trên ra lệnh, cấp dưới ì ra của cái gọi là phái mạnh. Trong 147 nhiễm sắc thể Y đã mất trên 2/3 chỉ còn lại 45.
Tóm lại, loài người đã phạm sai lầm lớn, rất lớn. Nền văn minh công nghiệp đã có công tạo nên sự phát triển lực lượng sản xuất kỳ diệu nhưng cũng đã phạm một tội ác đe dọa sự tồn tại của loài người. Con người hiện đại có những như cầu không ai có thể dự báo được, mà điều kiện thỏa mãn nhu cầu thì mỗi ngày một thu hẹp.
Giả thiết, tôi giả thiết thôi, nếu loài người thực hiện được phương châm làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu thì làm gì còn động lực nữa.
Đứng về mặt xã hội, con người phức tạp lắm, phức tạp hơn ta nghĩ rất nhiều. Không thể “thuần hóa” được như Mác nghĩ. Không thể có xã hội không nhà nước, không áp bức, không bóc lột, xã hội lý tưởng như Mác nghĩ. Chúng ta phải bằng lòng với thực tế xã hội sẽ tiến bộ với những ưu điểm mới, những tố chất mới, giàu có hơn, nhân đạo hơn, nhân văn hơn, trí tuệ hơn cùng với những khuyết tật thích ứng, những bất công đã và đang nảy sinh và sẽ nảy sinh, rồi lại chuyển sang một trình độ khác cao hơn với những bất công mới. Không có xã hội lý tưởng, và cũng có thể xã hội sẽ tiến hóa ngược, một hiện tượng bất thường nào đó xuất hiện có thể kéo lùi nền văn minh trở lại, chưa biết đến đâu. Muốn có tương lai, các thế hệ sau phải giải bài toán này một cách liên tục với tinh thần sáng tạo mới. Lao động sáng tạo ra xã hội mới gian khổ lắm, lâu dài vô tận và không bao giờ chấm dứt. Tương lai là “terra incognita”, nghĩa là một vùng đất hoang mà! Không có một lý thuyết nào đủ sức khám phá tương lai một lần.

Vấn đề lớn thứ ba.
Mục tiêu xây dựng ở Việt Nam: xã hội dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, chính xác. Nếu cần thì điều chỉnh chữ dân chủ lên trên chữ công bằng.
Tuy nhiên, đây chỉ là khẩu hiệu, lời hứa, chưa là hiện thực. Vấn đề là trong mỗi giai đọan lịch sử nhất định nó phải được thể hiện qua một hệ thống mục tiêu cụ thể, thực tế, khả thi, bằng những chương trình hành động với những kết quả thiết thực, có sức thuyết phục.
Tôi xin lưu ý , tất cả các thế lực cầm quyền mọi thời đại ở bất cứ quốc gia nào cũng đều có tuyên ngôn (ở những dạng khác nhau) hứa với đồng bào của họ bằng những “đại ngôn” cực kỳ hấp dẫn. Vấn đề là phải xem hiệu quả của những chính sách cụ thể.
Tôi hy vọng bản báo cáo kế hoạch phát triển 20 năm của chính phủ sẽ làm sáng tỏ vấn đề gai góc này.
Trong quá trình thực hiện sự dịch chuyển vào tương lai đang xuất hiện 4 con ngựa chiến thời đại như những công cụ dẫn dắt hành động của tất cả các quốc gia hiện hữu ta cần tham khảo.

Công cụ thứ nhất. Kinh tế thị trường quốc tế hóa, hiện đại hóa, một phương thức duy nhất hiện nay. Con ngựa rất hay, nhưng rất đỏng đảnh nhiều tật, đã mang lại sự phát triển chưa từng có trong lịch sử, nhưng cũng mang lại biết bao tai họa, chưa thể lường hết được. XHCN đã thể nghiệm một phương thức khác, phương thức kinh tế kế hoạch hóa dựa trên sở hữu công để loại bỏ con ngựa bất kham kinh tế thị trường nhưng không thành công, lại phải trở lại kinh tế thị trường và sáng tạo thuật cưỡi mới hiện đại và hiệu quả hơn.
Có mấy vấn đề có tính cách nguyên tắc, tôi xin phép được lưu ý:
-Nền kinh tế thị trường nào cũng phải dựa trên nền tảng giải phóng sức sản xuất con người. Phải thừa nhận chế độ sở hữu tư nhân, thừa nhận nghiêm túc, lâu dài. Sự xuất hiện sở hữu tư nhân là nền tảng của kinh tế thị trường. Với tất cả chiều sâu và tính toàn diện của nó, cùng kết hợp với nó là chế độ sở hữu công. Cần xác định mối quan hệ hỗ tương của hai hình thức sở hữu này nhằm bổ sung cho nhau và không lấn sân nhau. Phải tôn trọng sự thật lịch sử là sở hữu công đã là nòng cốt của nền kinh tế nước nhà mấy chục năm qua, phải cải tạo theo hướng thích hợp thị trường song quyết không thể thực hiện sự chuyển giao tài sản công cho tư nhân theo kiểu dâng không để một số người thực hiện sự cướp đoạt tài sản công. Cần xây dựng các tập đoàn kinh tế nhà nước mạnh làm chỗ dựa cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và hội nhập quốc tế ở một số ngành, then chốt. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận tính thiếu hiệu quả của xí nghiệp công để có chính sách khuyến khích tư nhân phát triển thành những tập đoàn lớn xuyên quốc gia.
-Ý thứ hai: muốn kinh tế hàng hóa vận hành tốt phải thực hiện hàng hóa hóa nền kinh tế, xây dựng các thị trường hoàn chỉnh, hết sức lưu ý thị trường đất đai, vấn đề rất nhạy cảm.
–Ý thứ ba: Nói kinh tế hàng hóa là nói tự do cạnh tranh chống độc quyền. Nếu dung túng cho sự độc quyền thì nền kinh tế sẽ biến dạng ngay.
Kinh tế thị trường có ưu điểm là động lực phát triển song có rất nhiều khuyết tật, cần sự quản lý một nhà nước trong sạch và thông minh. Đây là nét phát triển mới của kinh tế thị trường hiện đại. Nếu bộ máy nhà nước tham nhũng tiêu cực, quan liêu hạch sách, cửa quyền và dốt nát thì là một tai họa, kinh tế thị trường biến tướng ngay.
Tôi nhấn mạnh tính trong sáng và tính trí tuệ. Đề nghị các đồng chí quan tâm xử lý sự non kém thiếu kiến thức điều hành.
Nều kinh tế thị trường của ta khác với nhiều nước NIC – như Xinhgapo, Hồng Công… Các nền kinh tế này hoàn toàn hướng ra ngoài. Nền kinh tế thị trường Việt Nam có mục tiêu hướng ra ngoài vừa phải, còn phải ra sức xây dựng thị trường nội địa để bảo đảm tính bền chắc. Sự hình thành tầng lớp trung lưu là cơ sở để nuôi dưỡng thị trường nội địa làm cho nó có sức sống, là điều kiện sống còn của nền kinh tế.
Cần hết sức chú ý xây dựng thị trường nông thôn - thị trường bao quát gần 2/3 nhân lực Việt Nam. Đây cũng là một đặc điểm Việt Nam. Nếu coi nhẹ bỏ rơi thị trường nông thôn sẽ gặp tai họa không lường được.
Đi đôi xây dựng kinh tế thị trường phải có chiến lược hiệu quả thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu, hiện đại hóa cơ cấu. Trong một thời gian không xa phải thực hiện sự dịch chuyển sang cơ cấu mới, cơ cấu nông nghiệp, dịch vụ kết hợp nông nghiệp, lấy công nghiệp và dịch vụ làm nền tảng. Từng bước đưa tỉ lệ kinh tế trí thức tăng dần đến giữa thế kỷ tỉ lệ kinh tế trí thức phải là động lực chính thúc đẩy kinh tế.
Phải có một chiến lược có hiệu quả khắc phục tình trạng cơ sở hạ tầng quá yếu, đặc biệt cơ sở hạ tầng giao thông, điện lực, thông tin, dịch vụ, một hạ tầng chất lượng lao động, đặc biệt lao động quản lý, một thế hệ các giám đốc hiện đại, các chuyên gia kinh tế hiện đại, các học giả kinh tế hiện đại, v.v…
Bên cạnh Viên nghiên cứu cần thành lập Viện chống khủng hoảng. Đã chơi con bài kinh tế thị trường thì việc đối phó với khủng hoảng là tất yếu. Phải có một cơ chế thích ứng đặc biệt, cơ chế đủ sức cảm nhận thông minh với thị trường nhất là trên lĩnh vực tài chính ngân hang, thị trường chứng khoán v.,. v… và chủ động dự kiến các giải pháp đối phó hữu hiệu.
Và ý kiến cuối cùng của tôi là cần xây dựng một nền văn hóa kinh tế thị trường, nâng cao chất lượng đặc biệt lớp trẻ với kinh tế thị trường hiện đại.

Công cụ thứ hai: Dân chủ hóa xã hội, thực chất là xây dựng xã hội dân sự, hay còn gọi xã hội công dân nhà nước pháp quyền.
Dân chủ hóa xã hội là một xu thế xuyên suốt cả quá trình tồn tại và tiến hóa của nhân loại. Nó vừa là phương pháp hành động vừa là mục tiêu tối thượng của một xã hội tiến bộ . Nhân loại đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thành tựu lớn nhất là từ xã hội thần dân của phong kiến loài người đã thực hiện được bước nhảy vọt sang xã hội công dân nhà nước pháp quyền, với 2 đặc trưng, người dân đã bước vào kỷ nguyên mới, ở mức độ nhất định được làm chủ đất nước với tuyên ngôn nổi tiếng: người ta sinh ra ai cũng có quyền tự do. Tự do là quyền thiêng liêng nhất, quyền bẩm sinh, không phụ thuộc vào sự ban phát của bất cứ thế lực chính trị nào. Song thực tế không phải như vậy. Người có quyền lực bao giờ cũng lạm dụng quyền lực, cho nên loài người sáng tạo nguyên lý mới “tam quyền phân lập” theo hướng quyền lực giám sát quyền lực để ngăn chặn quá trình tha hóa bộ máy quyền lực. Nhưng người cộng sản phê phán đó là một trò chơi giả dối, người lao động không có quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất thì làm gì có quyền dân chủ, nguyên nhân tha hóa con người chính là ở chỗ CNTB đã chiếm hữu tư liệu sản xuất và họ thực hành chiến lược tập trung quyền lực trong tay giai cấp công nhân, thực chất trong tay đảng cộng sản, tổ chức đại diện quyền lực của giai cấp công nhân thực hành chuyên chính vô sản coi như phương tiện để giải phóng con người triệt để hơn. Dân chủ XHCN về thực chất cao hơn gấp triệu làn dân chủ tư sản. Nhưng trên thực tế qua quá trình cầm quyền với hình thức quản lý chuyên chính vô sản, với nguyên tắc tập trung dân chủ, xã hội chưa bao giờ được hưởng quyền dân chủ đích thực và lý do đơn giản, thế lực kẻ thù còn lớn, đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân, các dân tộc bị áp bức với CNTB rất khốc liệt. Các thế lực thù địch rất dễ lợi dụng dân chủ để thực hiện lật đổ chính quyền chuyên chính vô sản và trên thực tế, chúng ta chỉ thực hiện được một phần cương lĩnh của Mác là tự do cho cá nhân là cơ sở của tự do xã hội. Tự do của xã hội quyết định tự do của cá nhân. Hầu hết các đảng viên có lương tâm và trí tuệ đều băn khoăn về hiện tượng này. Tôi có dịp làm việc với các đồng chí tiền bối thuộc lớp trước tôi, trước khi qua đời đều “di chúc” lại băn khoăn này như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, như ủy viên bộ chính trị Tố Hữu, như cố thủ tướng Võ Văn Kiệt v..v.. thậm chí có đồng chí nói (Tố Hữu): Bảo ơi, có lẽ phải làm lại cuộc cách mạng.
Qua tiếp xúc với hầu hết các đồng chí lão thành cách mạng còn sống cũng như hầu hết các học giả có tiếng của nước ta, tất cả đều băn khoăn về cái không khí “thiếu dân chủ” của xã hội ta.
Vấn đề là ở chỗ ta hứa nếu xã hội XHCN chuyển sang giai đoạn cao hơn, giai đoạn CNCS, xã hội sẽ được hưởng đầy đủ mọi quyền dân chủ ở mức cao nhất vì lúc đó nhà nước sẽ biến mất. Song con người lại rất thực tế, họ muốn hưởng các quyền dân chủ đích thực ngay trong cuộc đời của họ. Bi kịch là ở chỗ này.
Vấn đề hết sức phức tạp và tế nhị, nhạy cảm. Mong rằng Hội đồng lý luận tổ chức một cuộc hội thảo chuyên đề, hội thảo nội bộ để có thể nói thật được những băn khoăn và tìm giải pháp cho một chiến lược dân chủ hóa sinh hoạt xã hội đích thực hiệu quả.
Tôi xin phép lưu ý dân chủ hóa xã hội là một nguyện vọng chính đáng của nhân dân, của đảng viên. Phải có giải pháp hữu hiệu có sức thuyết phục mới ổn định được long dân. Nếu xã hội vẫn cảm nhận theo kiểu riêng của mình họ cảm thấy áp lực chuyên chế nặng nề lắm thì không thể tránh được những biến động xấu, rất xấu có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Công cụ thứ ba: Sự hội nhập toàn diện theo tinh thần: Dựa vào nhau mà tồn tại và phát triển. Liên kết với nhau để cùng nhau giải quyết các vấn đề phát sinh trong cuộc sống thực tế, xử lý các mối quan hệ theo tinh thần tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích toàn cục và vì lợi ích của mỗi nước, cùng nhau chung sức giải quyết các thảm họa có thể đe dọa sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Có rất nhiều vấn đề trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập nhất thể hóa vì vị trí mỗi nước, tiềm lục mỗi quốc gia, mỗi khu vực khác nhau, lợi ích khác nhau, chiến lược khác nhau.
Cần xây dựng một chiến lược hội nhập để giành chủ động. Cần nhanh chóng tổng kết kinh nghiệm, xây dựng một môn khoa học hội nhập để hướng dẫn mọi thành viên xã hội hành động hiệu quả nhất. Cần hoàn thiện luật pháp cho phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong mỗi lĩnh vực phải đầu tư một đội ngũ chuyên gia có tầm cỡ, giữ vai trò tham mưu hướng dẫn hành động của cộng đồng. Trong một số lĩnh vực quan trọng nếu cần phải có những hình thức tổ chức linh hoạt để nghiên cứu giành chủ động. Nên nghiên cứu hình thành một nội dung hiện đại hóa con người Việt Nam phù hợp với quá trình hội nhập. Đưa các nội dung đó vào các trường đại học cao đẳng dạy nghề v..v.. Mỗi ngành cũng cần nghiên cứu những nét riêng biệt của ngành để bồi dưỡng cán bộ, công nhân, viên chức của ngành. Nói tóm lại phải hiện đại hóa con người Việt Nam, đặc biệt lớp trẻ để hội nhập cuộc chủ động, sáng tạo.
Tôi xin góp ý một số vấn đề cụ thể. Ngoài việc hội nhập vào dòng thương mại quốc tế hóa, hiện đại hóa đã có cơ quan chuyên trách, cần chỉ đạo tốt mấy việc:
- Xây dựng một chiến lược hội nhập với ASEAN. Việt Nam cần rất chủ động xây dựng ASEAN lớn mạnh, mức độ liên kết mỗi gian đoạn cụ thể chặt chẽ hơn, bao quát hơn để tạo một thế chung. Một ASEAN lớn mạnh, liên kết chặt chẽ là một đảm bảo chiến lược cực kỳ thuận lợi để tạo cho tất cả các quốc gia trong khu vực một thế và l ực mới để giành chủ động trong mọi tình hình phức tạp và tế nhị. Từ nay đến giữa thế kỷ ASEAN phải trở thành một trong 10 thế lực in dấu ấn đậm nét vào quá trình tiến hóa của nhân loại.
- Cần có một chiến lược hữu hiệu tranh thủ 3 triệu Việt kiều gắn bó với tổ quốc, sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng, đặc biệt tiềm năng trí tuệ vào sự nghiệp xây dựng đất nước và chỗ dựa cực kỳ quan trọng của tổ quốc trong quá trình chúng ta thâm nhập vào các thị trường quốc tế. Phải có chiến lược mở rộng sự dịch chuyển lực lượng lao động Việt Nam sang các địa bàn trên khắp thế giới để xây dựng những thế lực kinh tế Việt Nam trên các địa bàn khắp thế giời, đặc biệt chú trọng châu Phi, Trung Cận Đông, Ôxtrâylia, Nga, châu Mỹ Latinh và ngay tại nước Mỹ .. để hỗ trợ kết hợp với nội địa tạo một bộ mặt mới hoàn toàn về chất. Tôi hình dung Việt Nam vào giữa thế kỷ sẽ khác xa hiện nay.
Tôi cũng xin phép lưu ý cần xây dựng một chiến lược để người Việt Nam thâm nhập vào các tổ chức quốc tế để mở rộng ảnh hưỏng Việt Nam v..v.. Việt Nam cần có những căn cứ kinh tế, khoa học kỹ thuật, chính trị đông đảo ở hải ngoại để phối hợp với trong nước.

Công cụ thứ tư: Đã có dấu hiệu loài người đang dịch chuyển sang nền văn minh mới, văn minh trí tuệ hay còn gọi là văn minh hậu công nghiệp, văn minh tin học v..v, với 2 đặc điểm:
a/ Con người được giải phóng ở trình độ cao, được tạo điều kiện đứng giữa dòng thác trí tuệ hiện đại đang nở như hoa trong cuộc chinh phục mới sự hiểu biết ở cấp độ cao hơn. Đã xuất hiện và đang xuất hiện những ý tưởng mới, những khái niệm mới, những phạm trù mới liên kết lại thành những mầm mống của nhiều lý thuyết mới, vườn ươm của các phương pháp, công nghệ mới.
Cần tạo điều kiện cho các học giả, các chính khách chiến lược, và đội ngũ tư vấn của họ làm quen với những thành tựu này để nâng cao chất lượng của những công trình khoa học, nâng cao chất lượng của các quyết sách dẫn dắt sự đi lên của đất nước.
Rất cần và muôn ngàn lần cần tạo điều kiện cho lớp trẻ tiếp cận cái dòng tư duy thời đại này để họ trưởng thành trở thành những học giả trẻ mang lại một luồng gió mới cho đất nước. Phải cài họ vào những trường đại học hàng đầu thế giới, đặc biệt giai đoạn họ làm luận án tiến sĩ phải tư vấn cho họ tìm được những giáo sư đang đi lên, tiêu biểu xu thế của tương lai. Nếu tiếp cận được những học giả này sẽ mở được con đường vào tương lai khoa học sáng sủa nhất.
b/ Đó là lịch sử đòi hỏi sự phát triển ý thức trách nhiệm xã hội của con người, trách nhiệm với cộng đồng nhân loại, trách nhiệm với tương lai. Người ta hy vọng loài người sáng tạo được những công trình góp phần nâng cao ý thức nhân văn, tính nhân đạo trong xử lý mối quan hệ giữa con người với con người, luôn mang lại sự lành mạnh cho con người và từng bước triệt tiêu, vô hiệu hóa cái ác.
Có thể còn có một vấn đề khác tôi muốn lưu ý, đó là làm thế nào để cải tạo được phương pháp tư duy cực kỳ lạc hậu trong xã hội Việt Nam hiện nay, đầy rẫy mơ hồ, sai lạc, thành kiến, thiếu thông minh, những tập tục, thói quen lạc hậu đang chi phối xã hội ta. Có điều xin tâm sự, cái thành kiến, các lạc hậu lại đang chi phối cả các học giả, các học giả có vị trí lớn được xã hội kính trong. Đó là tính nịnh bợ, sự dối trá, tính hư danh, tính ích kỹ, cái lạc hậu, cái xấu xí đó nó đã thâm nhập mọi ngõ ngách của xã hội.
Việc dẫn dắt dân tộc đứng giữa dòng sự dịch chuyển vào quỹ đạo của nền văn minh nó quan trọng thực sự. Đó là con đường đi tắt ngắn nhất vào tương lai. Trí thức hóa một dân tộc, trí thức hóa lớp trẻ quả là một nhu cầu cách mạng nhất.
Trong những năm trước mắt chiến lược này phải được thể hiện tập trung nhiều vào những mặt sau:
Hiện đại hóa các trường đại học, xây dựng một số trường đại học có chất lượng trung bình trên thế giới rồi tiến lên xây dựng một số trường có chất lượng cao hơn có thể vào nửa sau thế kỷ. Cần cải tiến khâu đào tạo tiến sĩ, tạo nên những học giả đích thực, phải kiên quyết chấm dứt cái hư danh, nó sẽ hủy hoại cả một tiềm lực trí tuệ của đất nước và dẫn dắt vào cõi tối tăm.
Cần có chính sách kiên quyết loại bỏ những sự dối trá, thiết lập trật tự mới trong hàng ngũ các học giả, tầng lớp được vinh danh là giáo sư, tiến sĩ. Chỉ cần ít nhưng tinh. Có thiết lập trật tự mới thì mới có thể có tương lai. Nếu nuôi dưỡng cái giả dối, để cái giả dối chi phối thì mọi tai họa có thể xảy ra.
Tóm lại đó là 4 con ngựa chiến đang xuất hiện và chi phôi sự sống và tiến hóa của nhân loại. Trong 4 con ngựa này khó cười nhất là con ngựa dân chủ hóa xã hội, không phải vì thiếu hiểi biết – nhân loại đã tích lũy được rất nhiều kiến thức bổ ích, mà là vì nói rất “tế nhị” và “nhạy cảm”. Tôi có cảm giác tuy chúng ta đã đạt được một số thành tích nhất định, nhưng chưa đủ quyết tâm, chưa đủ tự tin cần thiết dám nhảy lên lưng ngựa. Nếu không dám cưỡi cũng như cưỡi thiếu bản lĩnh, tôi ngại sớm muộn sẽ gặp phải tai họa không lường được. Xã hội có giữ được thế ổn định bền vững hay sẽ bùng phát bùng nổ cũng tùy thuộc một phần lớn vào bản lĩnh cưỡi con ngựa này của chúng ta. Hy vọng Hội đồng lý luận có những đột phá, kết luận xác đáng.
Tất cả các quốc gia đều phải tham gia xây dựng một khoa học và nghệ thuật cưỡi những con ngựa trên để tiến cùng thời đại tạo cho quốc gia mình những điều kiện thuận lợi nhất tiến về tương lai và cùng góp phần thúc đẩy nhân loại tiến hóa sáng tạo ra những hình thức sống và phát triển tốt nhất.
Việt Nam không nằm ngoài lề. Giải quyết bài toán chủ động phát triển tức là phải giải bài toán “thuật cưỡi lên 4 con ngựa chiến” này để dẫn dắt cả dân tộc mình, khỏi động một cuộc tiến công mạnh mẽ nhất, sôi động nhất chưa hề có trong lịch sử sáng tạo tương lai Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc 5 châu như Bác Hồ mong muốn.

Vấn đề thứ tư, Vấn đề học thuyết Mác-Lênin
Cần phân biệt Mác và Lênin
Về Mác: Mác là nhân vật có vị trí đặc biệt trong lịch sử tư duy loài người. Các học giả có thẩm quyền đánh giá: Mác là một trong 16 cái đầu ưu việt nhất mọi thời đại. Nếu cần chắt lọc 3 cái đầu đặc sắc nhất thì Mác và Anhxtanh là 2 trong 3 cái đầu ấy. Học thuyết Mác cũng như tất cả các học thuyết chân chính khác đều là học thuyết mở, học thuyết sống, nghĩa là nó cần luôn luôn được bổ sung bằng những luận điểm mới khái quát từ thực tiễn mới, qua các chu kỳ vận động của lịch sử trên cơ sở những thành quả mới của tư duy loài người. Học thuyết Mác cũng như tất cả các học thuyết khác chỉ là một bậc thang của trí tuệ và không thể là bậc thang cuối cùng. Nếu là bậc thang cuối cùng có nghĩa là tiến hóa ngừng trệ hoàn toàn, tư duy ngừng trệ hoàn toàn, hay nói một cách khác Tư duy đã chết rồi Tối tăm sẽ thế chỗ cho Sáng tạo.
Người ta sẽ hỏi Lênin: Ngài học được ở Mác cái gì, Lênin trả lời “Nói cho cùng đó là phương pháp luận”. Theo tôi kể cả phương pháp luận tức chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng cần bổ sung nhiều luận điểm mới. Phương pháp của Mác đã đạt trình độ cao, rất cao song nó vẫn là một sản phẩm lịch sử.
Về Lênin: Về Lênin thì khác. Lênin có rất nhiều trước tác có giá trị, được đánh giá cao cần tham khảo song cũng có một số luận điểm cần điều chỉnh. Lịch sử đã chứng minh những khuyết tật ấy. Ít nhất cũng cần chú ý 3 luận điểm cần điều chỉnh:
Một là luận điểm về sự tan rã tức thì của chủ nghĩa tư bản.
Hai là luận điểm về cách mạng bạo lực. Dùng bạo lực đập tan bộ máy thống trị của giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản, quét sạch mọi tàn dư của chủ nghĩa tư bản, quét sạch chế độ tư hữu, tiến hành triệt để cuộc đấu tranh toàn diện với hệ tư tưởng tư sản, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa hoàn toàn mới từ A đến Z.
Ba là luận điểm về điều kiện các nước chậm phát triển có thể xây dựng CNXH không cần thông qua giai đoạn phát triển TBCH. Về cuối đời Lênin cũng đã điều chỉnh tư duy về luận điểm này ở mức độ nhất định khi đưa ra chính sách Kinh tế mới. Nhưng tiếc rằng những người kế tục sự nghiệp Lênin lại kết luận khi đó chỉ là sách lược lùi bước tạm thời và chấm dứt rất sớm chính sách này.
Hệ quả là sự ra đời mô hình “chủ nghĩa xã hội Xôviết” mà nhiều học giả ngày nay phê phán là về bản chất nó là một thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng biến tướng hay CNXH bạo lực, trại lính v.v… một thứ CNXH mà nhân loại phải trả giá bằng sự tàn sát hàng chục triệu người ở Liên bang Xô viết và Trung Quốc (có con số thống kê chính thức công bố gần đây là vào khoảng gần 100 triệu người) và một chế độ xã hội thiếu thốn nghèo khổ. Sự phê phán trên là quá khe khắt song không phải không có yếu tố hợp lý.
May thay xuất hiện phong trào cải cách và đổi mới, một thử nghiệm mà nhân loại đang gởi gắm kỳ vọng có thể sáng tạo một mô hình CNXH mới về chất có sức thuyết phục. Tôi xin nhắc lại “nhân loại hy vọng thôi”, còn rất nhiều việc phải làm, phải thử nghiệm, phải tổng kết mới dần dần tạo ra được những yếu tố tích cực để tạo sự dịch chuyển vào một mô hình mong muốn của nhân loại… Có thể thành công song cũng rất có thể mắc phải tư duy duy ý chí một lần nữa, rất có thể sa vào vũng bùn của chủ nghĩa ngụy biện (sophisme) hay chủ nghĩa ngộ biện (paralogisme).
Không ít học giả trên thế giới và trong nước, những học giả chân chính, đích thực đã cảnh báo: “Đã có những dấu hiệu đổi mới, cải cách đang trượt dài sang không phải CNTB hiện đại mà là sang CNTB ‘xấu xí’, CNTB sơ khai với những đặc trưng cực kỳ man rợ, trong đó có 2 đặc trưng đáng chú ý:
Xuất hiện một luồng cực mạnh kinh tế ngầm lộng hành, chi phối sự vận động của xã hội với sự móc ngoặc của 2 thế lực đen: thế lực chủ nghĩa mafia ngoài xã hội, thế lực đen của những phần tử thoái hóa biến chất trong bộ máy cầm quyền. Và một bộ máy công quyền hư hỏng, vô cảm, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, thiếu chuyên nghiệp, ít hiểu biết, xa rời nhân dân, dị ứng dân chủ…
Tuy không phải toàn bộ bức tranh là như vậy, song đó là một thực tế tồn tại thực sự ở ngành này ngành khác, cấp này cấp khác, lúc này lúc khác, đang hủy hoại bản chất nhà nước cách mạng của dân, vì dân, do dân. Biện pháp khắc phục chưa tới giới hạn có thể chặn đứng được xu thế này. Hệ quả khó lường, có thể làm biến dạng cả bản chất chế độ.
Sự dối trá, thói hư danh, tính ích kỷ thu vén cá nhân đang chi phối triết lý sống của xã hội. Tất cả những cái tiêu cực này đang kích thích sự bùng nổ xã hội cả trên bình diện ý thức gắn bó với Đảng, với chế độ và cả trên bình diện hành vi ứng xử xã hội. Hãy cảnh giác!
Kết luận là phải tiếp thu một cách sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo. Phải có ý thức tiếp thu khoa học với tinh thần phê phán chặt chẽ, chắt lọc cái tinh hoa nhất và độc lập sáng tạo. Kiên quyết từ bỏ phương pháp tư duy duy ý chí xa rời thực tiễn, xa rời khoa học. Nhân loại còn đang tìm tòi, đang thử nghiệm, đang sáng tạo. Chưa xuất hiện định hình một mô hình đích thực nào dẫn dắt nhân loại vào tương lai.
Phải mạnh bạo đột phá, có gan đột phá, có bản lĩnh đột phá, song hãy bình tĩnh, thận trọng, chớ nên kết luận vội vã, kiểu áp đặt kiêu ngạo, mù quáng. Lịch sử rất nghiêm khắc. Phải trưởng thành và luôn luôn luôn tỉnh táo, năng động, thông minh, nghiêm túc, có trách nhiệm cao. Hội đồng lý luận đang được Đảng giao một trách nhiệm cực kỳ to lớn, nặng nề, mang tính lịch sử, tạo một bước ngoặt định hướng tư duy cho Đảng và xã hội. Mong các đồng chí ý thức sâu sắc sứ mạng này, tôi gửi gắm hy vọng, với tất cả thiện chí tôi mong muốn các đồng chí thành công.
Nếu Đảng cộng sản Việt Nam chủ trì sáng tạo đuợc lý thuyết mới dẫn dắt dân tộc bắt đầu từ Đại họi 11 sắp tới thì đó là một cống hiến vô giá, vai trò lãnh đạo của Đảng sẽ bất diệt. Đảng đã và mãi mãi là một Đảng của lương tâm và trí tuệ ở tầm cao hơn hợp xu thế thời đại hơn.
Đó là tất cả những gì tôi muốn tâm sự.

Hà Nội ngày 30/6/2009



No comments: