Saturday, November 1, 2008

Ký Võ Đắc Danh – người nông dân viết
Nguyễn Thị Ngọc Hải

Nguồn:
Người Đô Thị
Tháng 10/2008

Võ Đắc Danh(Ảnh do Trần Hữu Dũng chụp)
http://www.viet-studies.info/VoDacDanh.jpg

Anh lại đọat giải nhất thi bút ký báo Văn nghệ với câu chuyện bà mẹ già và người con trai “sắp già” chưa lấy vợ vì bận nuôi 10 trẻ mồ côi trên đỉnh núi Cấm An Giang, Người Đô Thị có cuộc trò chuyện trước ngày anh ra Hà Nội nhận giải.

I. Kiểu “bolero” bình dân

PV: Các giải thưởng văn học ở ta ít gây được tiếng vang. Trong giới văn chương lại hay ồn ào tung hô một số người đôi khi rất “vô lối”. Nhận giải thưởng về ký, cảm tưởng của anh thế nào?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Tôi được nhiều giải về ký rồi. Đồng bằng Sông Cửu Long 2 giải. Lần này bút ký “Cổ tích trên đỉnh Mồ Côi” giải nhất. Một cuộc chơi. Vì cái này đẹp, dễ chấm, chứ không gai góc. Kỳ thi về “Việt Nam Tổ quốc tôi” thì cái này chỉ là câu chuyện cá biệt, không đại diện phản ánh được vấn đề gì lớn của đất nước. Giải thưởng chỉ tạo quan tâm của người dự thi. Tôi không bao giờ viết với tâm lý dự thi cả.

PV: Có người nói ký Võ Đắc Danh “ăn theo” cái dễ xúc động là chuyện người nghèo khổ và ký của anh kiểu “bình dân Sài Gòn xưa” – chứ chẳng có cách tân kỹ thuật hiện đại nào trong bút pháp. Anh thấy đúng hay sai?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Có thể đúng ở khía cạnh nào đó. Tôi không tìm kiếm kỹ thuật, không sa đà vào định hướng nào. Tôi giãi bày, tư cách người kể chuyện với bạn đọc cái tôi bức xúc. Tôi là người viết của bình dân. Không đi vào thân phận con người e vô cảm. Nghệ thuật không tìm sự đồng cảm thì tìm gì. Bỏ qua đồng cảm thì nghệ thuật không còn gì. Gu của tôi là “bolero”. Người đọc mọi thành phần, ai cũng cảm được, không sang trọng chữ nghĩa. Tôi thấy các nhà văn lớn suốt đời một giọng, chỉ khác ở tầm nhìn. Như ở Việt Nam có Sơn Nam, Trang Thế Hy.

PV: Anh viết cả trăm bút ký và có “thương hiệu”. Có thể tóm đặc điểm ký “kiểu Võ Đắc Danh” là gì?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Đặc điểm: viết về nông dân và dân nghèo thành thị, có sẵn tâm, bao giờ cũng xúc động trước số đông đó. Cách viết: giấu cái tôi, sử dụng chất liệu thông qua chi tiết đời sống. Để tự câu chuyện nói. Mộc mạc, không thủ pháp, không kỹ xảo, kỹ năng. Mạnh nhất là chất liệu.

PV: Còn bao nhiêu nhân vật, câu chuyện thời đại khác, doanh nhân, trí thức không làm anh rung động hay sao?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Tôi cũng viết đấy chứ. Những nhân vật trong ký của tôi như Phan Văn Xoàn, Trần Bá Dương, ông chủ Sông Đốc… là khó kiếm. Những người chân chính đủ tạo cảm xúc mạnh thì ít vì kinh tế chuyển đổi sang thị trường, con người phải chụp giựt nhiều hơn. Giàu có mà nhân cách phẩm chất còn kiếm hoi.

PV: Nói thế anh không sợ bị giận sao?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Không sợ giận. Tôi quí trọng những người đóng góp làm giàu cho đất nước, hàng ngày giờ thay đổi đời sống kinh tế. Nhưng có cảm nhận từng mức độ. Thí dụ, cuộc thi rồi trong các bài ký được giải viết về ông gốm sứ Minh Long thì tôi chịu. Tôi quý ông đi lên từ nghèo khổ, sống chết với nghề. Còn ông doanh nhân kiểu nào đó giàu lên làm sân sau của quan chức, được cấp cho nhiều đặc lợi làm ăn. Người như thế, cho chị 100 triệu, bảo chị viết về họ, chị có cảm xúc nổi không?

II. Ra khỏi đường nhựa thấy gì?

PV: Anh viết nhiều về nông dân, vậy anh thấy đời sống họ có khá lên? Không lẽ họ không được hưởng lợi gì (dù ít hơn) trong cuộc chuyển đổi kinh tế và phát triển đất nước?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Nông thôn nghèo hơn. Xơ xác. Chị thử đi một lần. Ra khỏi đường nhựa là nhà không ra nhà, người không ra người, bần cùng tăm tối. Tôi đã có làm phim tài liệu giữa rừng U Minh. Cảnh con nít mặt mày vằn vện ăn chuối luộc thay cơm, khán giả không cầm được nước mắt. Miền Tây thì những người không nhà cửa, sống trên ghe giăng câu thì nhiều.

PV: Anh thử tả một cảnh nghèo nhất dã gặp?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Thí dụ một gia đình ở lòng hồ Trị An. Sống lều bạt, xuồng câu, gạo chạy từng ngày. Bốn con. Vợ liệt ngồi xe lăn. Không điện. Không chữ nghĩa. Tất cả đều không. Mà sống cách Thủy điện Trị An chỉ 1 km. Nghe bạn đi trên đó về nói họ khổ. Tôi tới xem nó coi sao.

PV: Có phải vấn đề đô thị hóa và đất đai là thủ phạm?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Ảnh hưởng vùng ven phát triển tới đâu phát sinh tới đó. Nhiều người bị cưỡng ép giao đất, đền bù. Thí dụ ở Nhơn Trạch tôi biết có công ty do tư nhân núp bóng. Xí phần 7-8 mẫu, huyện ra quyết định thu hồi. Một mét vuông nhà đầu tư đền dân 39.000đ. Không đi, cưỡng chế. Rồi chưa đổ đất, họ đã bán lại 9 triệu 1 mét vuông. Thường theo “công thức” ai cũng biết: Doanh nghiệp nói với chính quyền. Phê duyệt, ký quyết định thu hồi đất. Đền bù giá rẻ đi đâu thì đi. Đất giao nhà đầu tư. Chính ra nhà đầu tư không hưởng nhiều bằng chính quyền.

PV: Nhưng người ta bảo mở mang, cần đất xây dựng là quy luật của phát triển?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Đồng ý phát triển. Nhưng có công thức tốt sao không làm. Cho dân góp vốn bằng đất của họ, họ cũng được hưởng lợi từ vốn đó. Phát triển là qui luật, phải nghĩ quyền lợi của người nông dân trước đã. Không thể một chủ dự ánh làm giàu, trăm ngàn nông dân khốn khó. Thực tế, không dự án nào có dự án an sinh xã hội đi kèm. Đưa ra một cục tiền, đi đâu thì đi. Đừng biện minh cho sự cướp bóc. Tôi đã viết “Trên đồng bưng 6 xã” đăng trên báo Văn Nghệ một gia đình đặc công rừng Sác nay mất đất. Bị gài độ phản ứng đến nỗi vợ con vô tù. Phải nói nơi đó là tột đỉnh tội ác.

PV: Anh viết ký, kể rõ người thật việc thật, có địa chỉ cụ thể, đăng công khai, vậy có tác dụng hoặc phản hồi gì không?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Ký của tôi chỉ nói nhiều điều đánh động lương tâm, làm giàu cho lòng nhân ái được khơi dậy trước số phận con người. Nhưng vẫn không làm cái ác giảm đi được. Thực tế chứng minh nhiều bài bút ký về đất đai, mafia cướp đất, họ chỉ im lặng hoặc chựng lại một thời gian rồi lại tiếp tục. Nó không làm cho kẻ vô cảm có cảm xúc.

PV: Vậy sao anh không dành hẳn phản ánh bộ mặt phía cái ác, có giá trị tác động vào cái ác hơn là cứ tả mãi phía nghèo khổ chịu đựng?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Có lần tôi đã thử làm thế. Miêu tả đối tượng là cái ác. Thí dụ, ở Long An, có cả ngàn dân mất cả ngàn mẫu đất. Cảnh cưỡng chế 2 hộ dân, có công an, cứu hỏa, cần cẩu, cứu thương, xe bít bùng bắt người… đủ cả. Bà phó giám đốc của công ty Tân Đức còn mắng: Chính quyền cưỡng chế không “máu lửa” gì cả, và người của họ nhào vô làm. Hay như cái vụ ở Nhơn Trạch, chính chủ tịch huyện chỉ huy cưỡng chế, chính quyền trở thành công cụ của các nhà đầu tư. Báo in ra, có người bỏ tờ báo gửi cho chính chủ tịch huyện đọc. Tất cả đều im lặng, không có trả lời.

PV: Anh thấy người nông dân không có thái độ hoặc cách gì sao?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Người nông dân ở trình độ dân trí thấp, lo ăn không xong, không tự tìm lối thoát. Phải từ nhà nước, các nhà đầu tư.

III. Phẩm giá thời đại


PV: Vậy anh thấy phẩm giá của thời đại chỉ có ở người nghèo khổ cam chịu và những tấm lòng tốt như ở cổ tích thôi sao? Dòng phẩm giá tử tế trong xã hội tồn tại như thế nào?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Người ta cứu giúp nhiều. Ở người nghèo khổ, sự vươn lên không phải không có. Nhưng họ luôn dừng trong chừng mực là sống có phẩm giá và không đương đầu nổi với cái ác. Nếu không khơi dậy cộng đồng cứu giúp thì suy sụp bế tắc. Thí dụ khi tôi viết “một bà mẹ chưa được tôn vinh”. Một bà đánh tàu, biệt động, 2 vợ chồng thương binh. Bà bảo con phải học tử tế mới thoát nghèo. Một ngày bả chèo 50km. Lá chuối đọt dừa cũng bán, dựng chòi nuôi con ăn học. Hai con gái lớn tốt nghiệp sư phạm đi xin việc, họ đòi 3 cây vàng. Chịu. Tôi cầm tờ báo đưa các cơ quan chức năng, các cô được nhận dạy học, 1 doanh nghiệp cho cậu con trai máy tính vì cậu học CNTT, được mua nền nhà giá thấp trả góp. Đó chỉ là thí dụ hy hữu cứu giúp được thôi.

PV: Vậy cái đích của anh là tìm sự đồng cảm giúp đỡ của xã hội? Có người nói anh viết ở Sài Gòn Tiếp thị có đối tượng đọc riêng kinh doanh - tiêu dùng, người nghèo ít đọc?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Người nghèo có đọc báo nào đâu. Chỉ đọc báo Công an. Tôi cũng tìm cách đăng trên Văn nghệ. Tưởng chỉ mấy cha nhà văn đọc. Nhưng sau tôi thấy người đọc Sài Gòn Tiếp Thị nhiều mặt bằng văn hóa khác nhau và quan trọng là họ hành động. Đối tượng có vẻ là người trung lưu, doanh nhân, tiểu thương, nhưng nhiều người đọc không chỉ tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Tôi không tham vọng gì cả. Tôi không xác định mình làm văn hay báo. Giới báo gọi tôi là nhà văn. Giới văn gọi tôi là nhà báo. Ai gọi gì kệ. Tôi là người nông dân cầm bút, không gì khác hơn. Người cầm bút có viết hay không là ở cảm xúc. Câu chữ uốn éo không là chỗ dựa. Vui nhất là nhân vật được giúp đỡ. Buồn nhất là nhân vật mình chịu bất công không cứu giúp được gì, bao nỗi đau rơi vào im lặng. Tôi không có quyền lực gì cả, chỉ là công cụ của dân thấp cổ bé họng. Trong nền dân chủ chập chờn, tôi tranh thủ làm công việc đó của mình. Nhà báo phải xem đó là trách nhiệm

IV. Trên “lốc’ thấy sự tử tế

PV: Anh mới mở blog 3 tháng, nghe nói thiên hạ vào nhiều lắm.
Nhà báo Võ Đắc Danh: Bài của tôi trên báo mạng người ta biết hơn báo giấy. Trên đó rạch ròi sân chơi từng đối tượng. Qua comment, người ta phản hồi nhiều. Còn sách báo đâu biết được. Qua “lốc” thấy được sự tử tế cuộc đời còn rất nhiều. Tôi không đi xa khám phá. Chỗ nào có chất liệu con người đáng chia sẻ thì viết. Nhiều điều giản dị mà phấn đấu mãi đã được đâu. Sơn Nam có viết câu chuyện ông cắt tóc vỉa hè bị hỏi hộ khẩu, trả lời: là công dân nhỏ lớn không biết hộ khẩu. Ông hiểu thế nào là Tổ quốc? “Là một nơi có thể sống được bằng một nghề lương thiện và có những người bạn chơi được, đừng ba trợn.” Khát vọng của ông già hớt tóc ấy nay hàng triệu người không có. Chị nghĩ xem, bao người còn đi tìm 2 cái đó. Đâu đơn giản. Mới thấy ông già Sơn Nam ghê. Sức mạnh đâu phải ngoằn ngoèo câu chữ “Đổi mới”.

V. Không thể quay lưng

PV: Anh đến với ký như thế nào?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Tôi đến với nghề viết ngẫu nhiên. Đi học trễ. Nhà nghèo. Một bữa ra công viên ngồi, anh bạn làm báo đi ngang ngồi lại nói chuyện, rủ đi làm báo. Thử việc có một cái tin nhận ngay. Nghe đọc truyện đêm khuya, mê nhất cái ký Cô Tô của Mai Văn Tạo. Rồi mê ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Tuân. Làm việc ở báo Minh Hải, về Hội VH-NT Minh Hải. Lên Sài Gòn làm phim tài liệu, tính nghỉ viết. Rồi làm Trưởng VPĐD báo NLĐ ở miền Tây, làm báo Pháp Luật, rồi báo Sài Gòn Tiếp Thị. Trong các sự kiện lúc đi làm báo, thấy có chất liệu đời sống nhiều, tôi viết ký. Tôi không ý thức thể loại. Viết gì nó cũng thành ký thôi à.

PV: Cuộc sống gian truân chắc là lợi thế cho anh trải nghiệm để viết ký về người nghèo khổ?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Có chứ. Tôi xuất thân gia đình nông dân, kháng chiến, đội bom đội đạn, nuôi chứa cán bộ. Sau 75, tôi vẫn là nông dân. Mẹ tôi từng giấu bao lúa trốn chiến dịch thời cải tạo kinh tế. Tới thời lúa rớt giá nông dân bị bỏ rơi. Nay thời nông dân “bị cướp đất”. Cái gì cũng trải. Hỏi gốc mình thế này, nhìn nỗi khổ không đau xót sao được. Bản thân từng nuôi tôm, nuôi trăn, làm da trăn, lái tôm, vỡ nợ, lăn lộn với thương trường. Xuống Gành Hào vay nợ nuôi tôm 3 tháng, ngày xổ tôm chủ nợ ngồi cống chờ. Tôm chết sạch.

PV: Anh từng gặp nhiều tai nạn vì các bài ký của mình như thế nào?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Hồi ở Cà Mau, viết ký đụng vấn đề nông dân bị áp bức, cường hào, cải tạo nông nghiệp. Có lần bí thư Tỉnh ủy ra lệnh bắt nhưng VKS không ký. Có cả lần viết báo Văn nghệ trẻ bị thu thẻ nhà báo đến nỗi có ông ở tòa soạn báo dặn nhau: Thôi, không đăng bài thằng Danh nữa. Nhưng tôi không thể quay lưng lại với những người khốn khó. Những kẻ chối bỏ, quay lưng sẽ biến đổi nhân cách.

PV: Vậy trong công việc anh gặp nhiều niềm vui không?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Vui vì nhìn thấy lòng trắc ẩn còn rất nhiều trong xã hội và nhìn thấy phẩm giá của người bình dân. Tôi viết bà bán bánh chuối ở nhà sách Lê Lợi. Buôn bán nuôi hai đứa con khùng, đứa xơ gan. Nhà 8m2 – xã hội cả ngàn người như vậy. Nhưng một chi tiết: một ngày bà đi bán bằng hai cuốc xe ôm 30 ngàn. Có tối tôi bảo để tôi đưa dì về, con gái tôi nghe chuyện cũng muốn đưa bà về. Bả từ chối: Tội nghiệp chú xe ôm đang chờ. Dì đâu bỏ chú. Mưa gió gì người ta cũng đợi mình. Câu chuyện cổ tích trên núi Mồ Côi cũng vậy. Anh Bông ngoài 40 tuổi cũng chưa lấy vợ, lo cho lũ trẻ mồ côi. Điều kiện của anh: thà ở giá, còn ai đến với anh phải vì những đứa bé. Nghe đâu bên Mỹ có cô Việt kiều gửi thư. Cả chục cô rồi, muốn “nhẩy” vào tham gia chuyện cổ tích. Anh còn đang “úp mở” chưa nói. Bà mẹ sẽ già đi. Anh Bông có tiếp tục hay không. Việc nuôi nấng, học hành của mười đứa trẻ trên đỉnh núi ra sao. Cổ tích có hậu người xưa giải quyết bằng phép màu.

PV: Anh dự định viết tiếp về vấn đề gì?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Chắc phải tiếp tục. Tôi ít đọc lại cái đã viết. Nếu không làm cái mới chính tôi sẽ tự chán mình.

PV: Xin cảm ơn anh.

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI
23-10-08
http://www.viet-studies.info/NTNgocHai_VoDacDanh.htm


Chính Sách Không Mang Gương Mặt Con Người
Osin's Blog
Friday October 31, 2008 - 11:59am (ICT)
http://blog.360.yahoo.com/blog-_Q78P6g5br89WVUa77qC3PG4?p=6195
“Đói quay quắt ở rừng U Minh Hạ” và chuyện “thấp bé nhẹ cân” không được lái xe là hai vấn đề rất khác nhau và tưởng như không có gì liên quan tới nhau. Nhưng, về sâu xa, cả hai đều là hệ quả của một quy trình ban hành chính sách. Một quy trình mà ở đó “việc” đã được đặt lên trên yếu tố con người.
Hơn 6000 nông dân giữ rừng U Minh Hạ đang “đói quay quắt”, đói “không phải do trời”. Theo báo Tuổi Trẻ, thì đây là những nông dân nhận khoán rừng, nhưng vì, chu kỳ thu lợi của rừng là 13 năm, để có cái ăn hằng năm, họ phải “xen canh” cây lúa. Tuy nhiên, do phải giữ nước để phòng cháy rừng, lúa của những người nông dân này đã bị ngập không sống được.
Yếu tố “xung đột” về lợi ích trong bài toán giữ rừng có vẻ như không phải là câu chuyện riêng tư ở rừng U Minh. Tại một địa phương, khi cán bộ tuyên truyền nói với bà con, phá rừng sẽ làm cho môi trường và con người chết dần. Bà con hiểu và nhất trí với cán bộ. Cán bộ hỏi, “vậy sao vẫn còn phá rừng?”. Bà con nói, “thưa cán bộ, phá rừng thì chết dần, nhưng không phá rừng, không có cái ăn thì vợ con mình chết liền”. Giữ rừng là quyết định của những nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược. Nhưng, câu chuyện ở U Minh cho thấy, “chiến lược” sẽ không thể nào đứng được, nếu như khi ban hành chính sách đã không tính đến bữa cơm cho vợ con của những người ở rừng.
Quyết định 33, ngày 30-9-2008 của Bộ Y Tế, trở thành câu chuyện đàm tếu của báo chí trong và ngoài nước. Ngoài những yếu tố hài hước như “ngực lép” hay “thấp bé, nhẹ cân” không được lái xe gắn máy, đây còn là một ví dụ rất điển hình về quy trình ban hành chính sách. Chỉ riêng việc quyền đi lại và làm việc của hàng triệu người dân bị vô hiệu bởi một văn thư cấp Bộ đã cho thấy, không chỉ phải sửa đổi một số nội dung phi lý trong quyết định ấy mà còn phải xem xét lại cả quy trình ban hành nó và thẩm quyền pháp lý của các cơ quan được đưa ra những loại văn bản này.
Theo Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, được Quốc hội thông qua năm 1996 và sửa đổi năm 2002, thì với những điều luật cần có sự hướng dẫn bởi các thông tư, nghị định thì các cơ quan soạn thảo phải trình ngay các bản dự thảo thông tư, nghị định cho Quốc hội trước khi luật ấy được thông qua.
Nhưng, quy định này dường như rất ít khi được chấp hành và hệ lụy của nó là vô cùng to lớn. Nghị định ban hành theo luật lẽ ra chỉ là những văn bản hướng dẫn quy trình thực hiện những quy phạm được ban hành trong luật và các thông tư (của các bộ) chỉ hướng dẫn thêm một vài thủ tục. Nhưng, trong lịch sử ban hành các văn bản quy phạm đã có không ít lần, chính những quy định trong các thông tư, nghị định mới thực sự là “luật” chứ không phải là những “luật khung” mà Quốc hội thông qua. Thậm chí, có những văn thư cấp bộ đã đụng chạm tới những quyền căn bản như quyền tự do đi lại, tự do cư trú… được minh định trong Hiến pháp.
Vì sao, Quyết định 33 đã được dự thảo tới 11 lần, được hỏi ý kiến các bộ ngành và 64 tỉnh thành nhưng chỉ khi nó được công bố, Bộ Y tế mới nhận ra rằng “không hợp”. Không chỉ vì các kiến thức về sức khỏe, Quyết định 33 đụng chạm tới “quyền” đi xe gắn máy của hàng triệu con người. Quyền lợi của hàng triệu con người ấy không thể chỉ được quyết định thông qua thủ tục của một văn thư hành chánh. Nó phải được đưa ra bàn thảo dựa trên những quyền căn bản của Hiến pháp hiện hành.
Nếu như Quyết định 33 được ban hành theo đúng quy trình ban hành một đạo luật, thì một trong các tác giả của nó, Cục phó Cục Quản lý Khám và Chữa bệnh Trần Quý Tường đã không phải “phỏng đoán”: Đối tượng đó (những người ngực lép, thấp bé) không nhiều (Pháp Luật TP HCM), mà phải khảo sát để cho thấy thực sự con số đó là bao nhiêu. (Dựa trên số liệu nghiên cứu của mình, TS Nguyễn Văn Tuấn cho rằng, sẽ có khoảng 270 nghìn nam và 5 triệu nữ sẽ không đủ tiêu chuẩn đi xe máy nếu áp dụng những quy định đó). Nếu như, làm đúng quy trình phân tích chính sách, Bộ Y tế sẽ nhận thấy, các dữ liệu thống kê không ghi nhận tình trạng tai nạn giao thông xảy ra do “thấp bé, nhẹ cân” lên tới mức phải điều chỉnh bằng cách tước quyền đi xe của họ. Nếu Quyết định 33 được nhận thức đúng là một đạo luật thì khi dự thảo, nó đã phải được để cho nhân dân tham gia ý kiến chứ không phải đợi đến sau khi “ký”, một vị Thứ trưởng Bộ Y tế mới “lẫy”: nếu “không hợp lòng dân thì thôi”.
Những người đã từng đi thi lấy bằng lái xe ở nhiều nước phát triển sẽ thấy, thí sinh không phải đi khám bác sỹ mà chỉ được phát một tờ khai về sức khỏe, cơ quan cấp bằng sẽ có một kiểm tra nhỏ về mắt để xem người sắp có bằng lái ấy có khả năng nhìn thấy các biển chỉ đường. Trong khi đó, một người Việt Nam khi đi thi hoặc đổi bằng lái xe (nếu QĐ 33 có hiệu lực- theo Tuổi Trẻ) phải lấy được “Giấy chứng nhận sức khỏe người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới” do Bộ Y tế hướng dẫn gồm 40 trang giấy với 20 chữ ký. Không phải ở các nước phát triển người ta không coi trọng vấn đề an toàn giao thông như ta, mà ở đó, họ căn cứ những cơ sở dữ liệu được điều tra phân tích, để chỉ yêu cầu người dân làm những điều cần thiết, thay vì làm những gì được nghĩ ra từ các quan chức ngồi quá lâu trong các văn phòng.
Bảo vệ an toàn giao thông hay bảo vệ rừng đều nhằm bảo vệ cho con người một môi trường sống tốt. Không thể vì an toàn thuần túy để ra những quy định phi lý, cũng như, không thể vì rừng mà để đói cho dân. Luật hay chính sách không chỉ nhằm giải quyết “việc”, nó phải vươn tới một điều lớn hơn là phục vụ con người.
Huy Đức




No comments: