Khiêu vũ với Trung Quốc:
Việt Nam đang phát triển “Ngoại giao tre” ở châu Á
Prof. Richard Javad Heydarian
Dancing with China: Vietnam’s
Evolving ‘Bamboo Diplomacy’ in Asia, TRENDS Research &
Advisory , 04 March 2024
Bauxite Việt Nam dịch
https://boxitvn.blogspot.com/2024/03/khieu-vu-voi-trung-quoc-viet-nam-ang.html
Nếu có giải thưởng “Quốc gia của năm” vào năm 2023 thì có
lẽ nó phải thuộc về Việt Nam. Năm ngoái, quốc gia Đông Nam Á này đã trở thành
quốc gia duy nhất trên trái đất liên tiếp tiếp đón các nhà lãnh đạo của hai quốc
gia hùng mạnh nhất thế giới.
Đầu tiên là chuyến thăm
cấp nhà nước lịch sử của Tổng thống Mỹ Joe Biden, người đã nâng cấp quan hệ
song phương với Việt Nam lên “đối tác chiến lược toàn diện”. Tháp tùng nhà lãnh
đạo Mỹ, Để tăng phần thuyết phục có các công ty công nghệ hàng đầu của Mỹ – những
công ty đang tìm kiếm triển vọng sản xuất chất bán dẫn trong động lực kinh tế mới
của châu Á. Trong chuyến thăm Hà Nội, hai cựu thù, vốn đã trải qua cuộc chiến
kéo dài hàng thập kỷ ở đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, tìm kiếm các mối quan hệ
ngoại giao và các hợp tác quân sự chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21 [1].
Chỉ hơn hai tháng sau, nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc
Tập Cận Bình đã có chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam, chuyến thăm đầu tiên
sau hơn nửa thập kỷ. Quốc gia Đông Nam Á này đã không tiếc chi phí để đảm bảo rằng
chuyến thăm của nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ mở ra một “kỷ nguyên vàng mới” trong
quan hệ song phương. Cùng với Đệ nhất phu nhân Bành Lệ Viện, ông Tập được chào
đón bằng 21 phát súng và dàn các trẻ em vẫy cờ chào đón. Trong chuyến
thăm tương đối ngắn kéo dài hai ngày, nhà lãnh đạo Trung Quốc đã gặp tất cả các
nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam, trong đó có nhà lãnh đạo tối cao trên thực
tế - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Võ Văn
Thưởng, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Vương Đình Huệ
[2].
Trong một hành động mang tính biểu tượng cao, Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình đã bày tỏ lòng kính trọng trước lăng mộ của người sáng
lập nước Việt Nam, Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo cách mạng đã xây dựng mối liên
minh kéo dài hàng thập kỷ với Trung Quốc Cộng sản để chống lại các cường quốc
phương Tây vào đầu thế kỷ 20. Trên thực tế, ông Tập nhắc nhở mọi người về mối
quan hệ ở cấp độ cao nhất giữa hai đảng ở Trung Quốc và Việt Nam đã có từ thế kỷ
trước [3]. Sau một loạt các cuộc gặp cấp cao, hai quốc gia cộng sản
đã ban hành một tuyên bố chung dài 16 trang, trong đó nhấn mạnh cam kết chung của
họ trong việc nâng quan hệ song phương lên tầm cao mới [4].
Ông Tập hoan nghênh cam kết của Việt Nam tham gia sáng kiến
“cộng đồng chia sẻ tương lai”, nhằm tìm cách tạo ra một trật tự hậu phương Tây
toàn diện hơn ở châu Á. Về phần mình, nhà lãnh đạo tối cao của Việt Nam, ông
Nguyễn Phú Trọng, mô tả chuyến thăm của nhà lãnh đạo Trung Quốc là “một cột mốc
lịch sử mới” và ca ngợi “định vị mới trong quan hệ” giữa hai quốc gia cộng sản.
Trên thực tế, Việt Nam đã nâng Trung Quốc lên hàng đầu trong trật tự ngoại
giao, ngay cả khi quốc gia Đông Nam Á này tiếp tục phát triển mối quan hệ bền
chặt với các cường quốc khác [5].
Điều quan trọng là chuyến thăm đã nhấn mạnh sự đồng điệu sâu
sắc về ý thức hệ giữa hai bên. Cả Trung Quốc và Việt Nam không chỉ hoan nghênh
một trật tự “đa cực” hơn ở cấp khu vực và quốc tế, mà họ còn bày tỏ mối quan ngại
chung về một “cuộc cách mạng màu” tiềm tàng do phương Tây hậu thuẫn – giống như
những cuộc cách mạng từng tàn phá các chế độ độc tài ở Đông Âu và Bắc Phi trong
những thập kỷ trước – trong bối cảnh tầng lớp trung lưu mở rộng nhanh chóng và
chịu ảnh hưởng lâu dài của toàn cầu hóa tự do [6].
Hai bên cũng ghi nhận những vấn đề còn tồn tại trong quan
hệ song phương, nổi bật nhất là tranh chấp hàng hải ngày càng gia tăng ở Biển
Đông. Tuy nhiên, cả hai đều cam kết sẽ tập trung vào hợp tác ngoại giao cũng
như tiếp tục mở rộng mạnh mẽ quan hệ thương mại và đầu tư. Xét cho cùng, sự nổi
lên của Việt Nam như một cường quốc sản xuất toàn cầu phần lớn phụ thuộc vào việc
Trung Quốc liên tục đưa vào Việt Nam các bán thành phẩm, vốn và công
nghệ [7]. Với mục tiêu trở thành một quốc gia có thu nhập cao vào giữa thế kỷ
này, Việt Nam có đủ lý do để cố gắng giữ mối quan hệ ổn định với Trung Quốc.
Khuynh hướng chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc
là một phần trong chiến lược cân bằng để phát triển và mở rộng quan hệ với các
cường quốc. Đồng thời, quốc gia Đông Nam Á này không chỉ đi nước đôi, mà còn áp
dụng chiến lược “đa phương” và “đa liên kết” ngày càng tinh vi, cho phép nước
này theo đuổi mối quan hệ hiệu quả với các siêu cường mà không ảnh hưởng đến
quyền tự chủ chiến lược của chính mình [8]. Trung Quốc, siêu cường châu Á, đang
phải đối mặt với tình trạng suy thoái kinh tế trong nước và môi trường bên
ngoài thù địch hơn, cũng có mọi lý do để duy trì mối quan hệ tương đối ổn định
với nước láng giềng năng động phía Nam.
Đại chiến lược của Việt Nam
Nhà khoa học chính trị Sulmaan Wasif Khan mô tả “đại chiến
lược” là phương pháp mà một quốc gia “điều phối các dạng quyền lực khác nhau để
theo đuổi các mục tiêu quốc gia” [9].
Còn theo chiến lược gia người Anh, Ngài Lawrence David
Freedman thì “chiến lược [cũng] có nghĩa là thương lượng và thuyết
phục”, vì “các xung đột có thể được giải quyết thông qua phát triển các lợi ích
chung hoặc tạo dựng một liên minh chiến thắng với đối tác sẵn có tiếp theo”
[10].
Với Việt Nam hiện nay, chiến lược quốc gia của nước này
được hình thành trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh chứ không phải trong lịch sử
cổ đại [11]. Một câu thường được trích dẫn về Việt Nam nói rằng toàn
bộ chính sách đối ngoại của nước này phần lớn là sản phẩm phụ của cuộc đấu
tranh chống lại Trung Quốc kéo dài hàng thiên niên kỷ. Như Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch đã nói với truyền thông phương Tây trong những năm cuối
của Chiến tranh Đông Dương: “Chúng ta đã biết [Trung Quốc] 4.000 năm và đã đẩy
lùi họ nhiều lần [theo đó] …Trung Quốc đã thống trị chúng ta một lần trong
1.000 năm, và lần thứ hai trong 30 năm. Trong một thế kỷ có ba cuộc xâm lược của
Trung Quốc” [12].
Tuy nhiên, khi xem xét kỹ hơn, rõ ràng là lịch sử của Việt
Nam với nước láng giềng hùng mạnh phía Bắc có nhiều sắc thái hơn. Như một nhà sử
học hàng đầu đã lập luận, các chính thể thời tiền Việt “phụ thuộc vào việc thực
hành thành công việc bắt chước” các truyền thống quan liêu phức tạp của đế quốc
Trung Quốc [13]. Trên thực tế, Nguyễn, người đã trở thành nhà ngoại giao hàng đầu
của Việt Nam ngay sau cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, thừa nhận
rằng đất nước của ông đã được hưởng “thời kỳ hòa bình [liên tục] với [Trung Quốc]
trong 300 năm” [14].
Sẽ không thể hiểu được sự xuất hiện của nước Việt Nam cổ
đại hay cuộc cách mạng hiện đại đã khai sinh ra nước Việt Nam đương đại mà
không tính đến yếu tố Trung Quốc. Trung Quốc hiện đại, trong cả hai giai đoạn
dân tộc chủ nghĩa (Quốc dân đảng) và cộng sản chủ nghĩa (Maoist), đều đã được
chứng minh là nguồn hỗ trợ chính về mặt tư tưởng và vật chất cho phong trào cộng
sản Việt Nam vừa mới hình thành, phong trào cuối cùng đã đánh bại cả Pháp và Mỹ
[15].
Trên thực tế, Trung Quốc tiếp tục đóng vai trò là nguồn cảm
hứng cho Việt Nam, dù miễn cưỡng, ngay cả sau khi hai nước có xung đột gay gắt
trong những thập niên cuối của thế kỷ 20. Ví dụ, chiến lược “Đổi mới” của Việt
Nam phần lớn được lấy cảm hứng từ các cuộc cải cách kinh tế của nhà lãnh đạo tối
cao Trung Quốc Đặng Tiểu Bình vào những năm 1980. Thay thế cho “những mối thù
xưa”, những gì thực sự định hình cho học thuyết chiến lược đương đại của Việt
Nam là nhận thức đau đớn rằng việc phụ thuộc quá mức vào bất kỳ đồng minh siêu
cường nào hoặc việc đối đầu với một cường quốc như Trung Quốc có thể vô cùng
tàn khốc. Điều này đặc biệt đúng trong thập kỷ cuối cùng của Chiến tranh Lạnh,
khi Việt Nam dần dần bị đồng minh Liên Xô bỏ rơi, vì Liên Xô bị sa lầy ở
Afghanistan trong khi đồng thời xung đột với cả Trung Quốc và Hoa Kỳ [16].
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Việt Nam đã áp dụng
cách tiếp cận kiên quyết thực dụng và không liên kết về mặt địa chính trị dựa
trên nguyên tắc “Bốn Không”: (i) không liên minh quân sự với bất kỳ cường quốc
nước ngoài nào; (ii) không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự; (iii) không liên
minh với siêu cường này để chống lại siêu cường khác; và (iv) không dựa vào vũ
lực trong chính sách đối ngoại, trừ khi nhằm mục đích tự vệ [17]. Theo đó, lãnh
đạo Việt Nam tập trung vào ngoại giao chủ động, đảm bảo mối quan hệ hiệu quả và
cùng có lợi với nhiều đối tác đa dạng dựa trên “thương lượng và thuyết phục”
thay vì xung đột ý thức hệ hoặc vũ lực.
Các mối quan hệ ràng buộc
Trong chuyến thăm San Francisco để dự Hội nghị thượng đỉnh
Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11 năm 2023, Chủ tịch
nước Việt Nam đã cho thấy rõ cam kết tránh xa sự cạnh tranh giữa các cường quốc,
cụ thể là giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong cuộc nói chuyện được tổ chức bởi Hội đồng
Quan hệ Đối ngoại (CFR), Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng đã nói rõ rằng
phương châm mới của đất nước ông là “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy
tương đồng, hướng tới tương lai” [18].
Đây rõ ràng là sự ám chỉ đến mối quan hệ kinh tế song
phương đang bùng nổ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ trong một thập kỷ qua. Năm
2002, Việt Nam vượt qua Anh để trở thành đối tác thương mại lớn thứ 7 của Mỹ
[19]. Nhưng tuyên bố của ông cũng phù hợp, thậm chí còn phù hợp hơn, khi xét đến
mối quan hệ đang phát triển của Việt Nam với Trung Quốc. Trong chuyến thăm Hà Nội
của Tập Cận Bình, cả hai bên đã có những cuộc thảo luận thẳng thắn và mang tính
xây dựng về các tranh chấp hàng hải ở Biển Đông, mà đỉnh điểm là một số vụ đụng
độ bạo lực trong thập kỷ qua [20].
Lãnh đạo Việt Nam đã vạch rõ ranh giới đỏ của mình bằng
cách nhấn mạnh sự tôn trọng “độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của nhau
và nhu cầu hợp tác “trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có
lợi” [21]. Tuy nhiên, cả hai quốc gia cộng sản nhất trí “không ngừng củng cố
lòng tin chính trị” và áp dụng nhiều biện pháp xây dựng lòng tin, bao gồm tuần
tra chung ở Vịnh Bắc Bộ và các đường dây nóng giữa quân đội với quân đội ở Biển
Đông, nhằm tránh “những sự cố bất ngờ phát sinh từ hoạt động nghề cá” trong khu
vực tranh chấp [22].
Điều quan trọng là hai quốc gia cộng sản đã ký tới 36 thỏa
thuận hợp tác bao gồm tất cả các khía cạnh liên quan của quan hệ song phương. Mặc
dù Việt Nam từ chối hợp tác chặt chẽ hơn trong các vấn đề nhạy cảm như xuất khẩu
đất hiếm, nhưng vẫn hoan nghênh nhiều biện pháp khác nhau nhằm nâng quan hệ
song phương lên “tầm cao mới” khi lợi ích chiến lược Việt Nam-Trung Quốc có sự
hội tụ lịch sử trên cả ba mức độ [23].
Thứ nhất, chế độ cộng sản ở cả hai quốc gia hiện đang bị
thống trị bởi các thế lực ngày càng bảo thủ, vốn cực kỳ cảnh giác với chương
trình nghị sự “thúc đẩy dân chủ” và lối hùng biện kiểu Chiến tranh Lạnh của
chính quyền Biden. Đặc biệt, giới lãnh đạo Việt Nam lo ngại về triển vọng xảy
ra các “cuộc cách mạng màu” lấy cảm hứng từ phương Tây bởi tầng lớp trung lưu
ngày càng toàn cầu hóa và có tư tưởng tự do, vốn đang mở rộng nhanh chóng sau một
thập kỷ tăng trưởng chóng mặt [24].
Thứ hai, Việt Nam cũng chia sẻ rộng rãi mong muốn của
Trung Quốc về một trật tự quốc tế “đa cực”, không bị chi phối bởi các cường quốc
và giá trị phương Tây. Điều thú vị là quan điểm của Hà Nội về hai cuộc xung đột
lớn trong thời đại chúng ta, ở Ukraine và Gaza, như là gương soi của Bắc Kinh.
Điều này làm rõ thêm khoảng cách về ý thức hệ giữa Hà Nội – nước đang lén lút
duy trì mối quan hệ bền chặt với Nga [25] và có thiện cảm sâu sắc với chính
nghĩa của người Palestine – và phương Tây, nước đã tìm cách cô lập Moscow trong
khi hầu như đứng về phía Israel trong cuộc xung đột mới nhất [ 26].
Yếu tố thứ ba và được cho là quan trọng nhất là kinh tế.
Lĩnh vực xuất khẩu đang bùng nổ của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào việc nhập
khẩu nguyên liệu thô, các bán thành phẩm và thậm chí cả công nghệ từ Trung Quốc.
Dù sao đi nữa, cơ sở sản xuất của Việt Nam đang ngày càng hội nhập vào trung
tâm sản xuất “Đồng bằng sông Châu Giang” gần đó ở Trung Quốc, do đó tạo ra mức
độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế chưa từng có [27].
Trên thực tế, một nghiên cứu cho thấy các nền kinh tế
Đông Nam Á như Việt Nam có thể bị giảm tới 4,7% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) nếu
chiến tranh thương mại toàn diện nổ ra giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong khi phương
Tây cố gắng tách rời và giảm thiểu rủi ro khỏi Trung Quốc, họ lại phụ thuộc nhiều
hơn vào những nước như Việt Nam. Điều nghịch lý là Việt Nam ngày càng phụ thuộc
nhiều hơn vào các nguồn cung từ Trung Quốc [28]. Sự cộng sinh kinh tế này, cùng
với sự hội tụ ý thức hệ ngày càng tăng, đã thúc đẩy giới lãnh đạo Việt Nam tìm
kiếm một mối quan hệ ổn định tối ưu với Trung Quốc trong tương lai gần. Như vậy,
tránh xung đột và mở rộng hợp tác với nước láng giềng cộng sản đã trở thành hạt
nhân của “ngoại giao tre” của Việt Nam, giúp nước này đồng thời cải thiện quan
hệ với tất cả các nước lớn, đồng thời nâng cao quyền tự chủ chiến lược của quốc
gia Đông Nam Á.
R.J.H.
----------------------
Tài liệu tham khảo
[1] White
House press release, https://www.whitehouse.gov/briefing-room/statements-releases/2023/09/11/joint-leaders-statement-elevating-united-states-vietnam-relations-to-a-comprehensive-strategic-partnership/.
[2] Simone
McCarthy, “China’s Xi pushes more trust with Vietnam after Hanoi’s move closer
to Washington,” CNN International, December 13, 2022, https://edition.cnn.com/2023/12/13/china/china-xi-jinping-vietnam-visit-intl-hnk/index.html
[3] Julia
Lovell, Maoism: A Global History (New York: Knopf Doubleday
Publishing Group, 2019).
[4] See
China-Vietnam Joint Statement Press Release,
https://vietnamlawmagazine.vn/vietnam-china-joint-statement-70965.html.
[5] Ibid.
[6] Lye
Liang Fook, “China and Vietnam: The Power of Party Ties,” Asialink, September 25,
2023. https://asialink.unimelb.edu.au/insights/China-and-Vietnam-The-PowerofPartyTies.
[7] “How
America is failing to break up with China,” The Economist, August
8, 2023, https://bitly.ws/XNqG.
[8] For
a deeper analysis of the literature on how smaller powers balance their
relations with major powers, see Evelyn Goh, “Southeast Asian Strategies toward
the Great Powers: Still Hedging after All These Years?,” The Asan Forum,
February 22, 2016. https://theasanforum.org/southeast-asian-strategies-toward-the-great-powers-still-hedging-after-all-these-years/.;
Evelyn Goh, “Meeting the China Challenge: The U.S. in Southeast Asian Regional
Security Strategies,” East West Center, 2005, https://www.eastwestcenter.org/system/tdf/private/PS016.pdf?file=1&type=node&id=32053;
and Rachel Vanderhill, Sandra F. Joireman and Roza Tulepbayeva, “Between the
Bear and the Dragon: Multivectorism in Kazakhstan as a Model Strategy for
Secondary Powers,” International Affairs 96, no. 4 (July
2020): 975–993, https://doi.org/10.1093/ia/iiaa061.
[9] Sulmaan
Wasif Khan, Haunted by Chaos: China’s Grand Strategy from Mao Zedong to
Xi Jinping (Harvard: Harvard University Press, 2020), p. 1.
[10] Lawrence
Freedman, Strategy: A History. (Oxford: Oxford University
Press, 2015), p. XII.
[11] Carlyle
A. Thayer, “Sino-Vietnamese Relations: The Interplay of Ideology and National
Interest.” Asian Survey 34, no. 6 (1994): 513–28. https://doi.org/10.2307/2645338.
[12] Don
Oberdorfer, “Vietnamese Sure of Victory in Ancient Conflict With China,” Washington
Post, July 13, 1980 https://www.washingtonpost.com/archive/politics/1980/07/13/vietnamese-sure-of-victory-in-ancient-conflict-with-china/583b0927-c5b4-48b8-a5e5-480b8b341bfe/.
[13] Gerard
Sasges, “H-France Review.” H-France Review 17 no. 194 (2017), https://www.h-france.net/vol17reviews/vol17no194sasges.pdf.
[14] Don
Oberdorfer, 1980, op. cit.
[15] See
Nam Kim, Origins of Ancient Vietnam (Oxford: Oxford University
Press, 2018); and John Sidel, Republicanism, Communism, Islam
Cosmopolitan Origins of Revolution in Southeast Asia, (Ithaca, New
York: Cornell University Press: 2021).
[16] Julia
Lovell, Maoism: A Global History (New York: Knopf Doubleday Publishing Group,
2019).; William S. Turley and Jeffrey Race, “The Third Indochina War.” Foreign
Policy, no. 38 (1980): 92–116. https://doi.org/10.2307/1148297.
[17] Huynh
Tam Sam, “Vietnam’s “Four No’s” of defence policy are being tested,” Lowy
Institute, April 26, 2022. https://www.lowyinstitute.org/the-interpreter/vietnam-s-four-no-s-defence-policy-are-being-tested.
[18] See
the full speech at the Council on Foreign Relations (CFR) here. https://www.youtube.com/watch?v=nc7l9Dpozq8.
[19] Brendan
Murray, “Vietnam Boots UK Out of Top Seven US Trading Partners,” Bloomberg,
December 19, 2022, https://www.bloomberg.com/news/newsletters/2022-12-19/supply-chain-latest-vietnam-tops-uk-in-top-7-us-trade-partners.
[20] “Vietnam
Tracks Between Cooperation and Struggle in the South China Sea,” International
Crisis Group, December 7, 2022, https://www.crisisgroup.org/asia/north-east-asia/china/318-vietnam-tacks-between-cooperation-and-struggle-south-china-sea.
[21] See
China-Vietnam Joint Statement Press Release,
https://vietnamlawmagazine.vn/vietnam-china-joint-statement-70965.html.
[22] Ibid.
[23] Vu
Anh, “Vietnam, China sign 36 agreement documents for cooperation,” Vietnam
Express International, December 12, 2023
[24] Lye
Liang Fook, 2023, op. cit.
[25] Hannah
Beech, “Vietnam Chases Secret Russian Arms Deal, Even as It Deepens U.S. Ties,” The
New York Times, September 9, 2023.
[26] “Vietnam
calls for end to violence in Gaza Strip, supports two-state solution,” Tuoi
Tre News, October 29, 2023.
[27] “How
America is failing to break up with China,” op. cit.
[28] Ibid.
No comments:
Post a Comment