Sức
mạnh cảng biển của Trung Quốc : Mối đe dọa cho an ninh của Mỹ ?
Minh Anh
- RFI
Đăng
ngày: 08/06/2023 - 16:16
Trung
Quốc không thể duy trì các lực lượng bố trí ở tiền phương, triển khai từ một mạng
lưới căn cứ quân sự ở nước ngoài trên toàn cầu giống như Mỹ. Thay vào đó, Bắc
Kinh đang âm thầm trở thành « đối thủ cạnh tranh cầu cảng », tận dụng
lợi ích kép quân sự - dân sự từ hệ thống cảng biển quốc tế rộng lớn để củng cố
tầm với lực lượng quân sự toàn cầu của mình. Đây là các nhận xét từ hai nhà
nghiên cứu người Mỹ, Isaac Kardon và Wendy Leutert.
Tầu
chở container của hãng vận tải đường biển Cosco của Trung Quốc tại cảng Hamburg
của Đức, ngày 26/10/2022. AP - Michael Probst
Từ nhiều
năm qua, giới chức an ninh quốc gia Mỹ quan tâm nhiều đến đà tiến mạnh mẽ của
quân đội Trung Quốc, đặc biệt là lực lượng hải quân viễn dương. Chưa bao giờ
Hoa Kỳ phải đối mặt với một thách thức to lớn như lúc này, trước một đối thủ được
xem như là « ngang hàng » kể từ khi Liên Xô sụp đổ. Đối với
quân đội Mỹ, đây là một « cuộc đua về tốc độ », hàm ý rằng phải
điều chỉnh nhanh như thế nào và bao xa để có được một khả năng phòng thủ hiệu
quả trong một hệ thống quốc tế ngày càng cạnh tranh quyết liệt.
Trung
Quốc và thế thống trị kinh tế
Tuy nhiên,
theo hai nhà nghiên cứu Isaac Kardon, chuyên gia về Trung Quốc, Quỹ Carnegie vì
Hòa bình Quốc tế, và Wendy Leutert, giáo sư trường Nghiên cứu Toàn cầu và Quốc
tế Hamilton Lugar, đại học Indiana, chiến lược quốc phòng này của Mỹ dường như
được hiệu chỉnh kém, do không có được một vị thế thống trị về kinh tế giống như
Trung Quốc.
Trên trang
mạng Foreign Affairs, hai chuyên gia phân tích : « Không những Bắc
Kinh là đối tác thương mại lớn nhất của nhiều nước, mà Trung Quốc còn là nhà
cung cấp các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho thương mại toàn cầu. Tầm ảnh hưởng áp
đảo này đặc biệt thể hiện rõ trong lĩnh vực vận chuyển hàng hải, trong đó các
công ty Trung Quốc có liên hệ chặt chẽ với chính quyền Bắc Kinh đã trở thành những
hãng đi đầu về tài chính, thiết kế, xây dựng, vận hành và sở hữu các bến cảng
trên toàn thế giới. »
Quả thật,
90% lượng hàng hóa trao đổi của Trung Quốc được vận chuyển bằng đường biển, cao
hơn mức trung bình của thế giới là 80%. Các bến cảng không chỉ dành cho xuất khẩu
hàng hóa do Trung Quốc sản xuất mà còn phục vụ cho việc nhập khẩu các loại
nguyên nhiên liệu, khoáng sản, nông sản và nhiều loại hàng hóa khác…
Đây là kết
quả của một chính sách dài hạn mà Bắc Kinh đã vạch ra từ cuối những năm
1990 : Đặt phát triển và thiết lập một vị thế vững chắc trên thị trường
toàn cầu và tài nguyên thiên nhiên như là mục tiêu chính sách đối ngoại trọng
tâm. Nỗ lực này đã được ông Tập Cận Bình khi lên cầm quyền cho thúc đẩy nhanh
hơn qua dự án có tên gọi là Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) vào năm 2013.
Chỉ trong
vòng có một thập niên, Bắc Kinh đã bỏ ra khoảng một ngàn tỷ đô la cho BRI, dự
án xây dựng cơ sở hạ tầng toàn cầu được thiết kế để thúc đẩy kinh tế và ảnh hưởng
chính trị của Trung Quốc, thông qua các khoản đầu tư do chính phủ hậu thuẫn tại
hàng chục quốc gia.
Isaac
Kardon cùng với đồng nghiệp, sau nhiều năm thu thập các dữ liệu hàng hải Trung
Quốc, đưa ra con số gây ấn tượng mạnh: Tính đến cuối năm 2022, Bắc Kinh sở hữu
và khai thác 95 cảng biển tại 53 quốc gia, trải dài trên khắp các châu lục, ngoại
trừ Nam Cực. Trả lời nhật báo Mỹ The Wall Street Journal, vị chuyên gia về hàng
hải Trung Quốc nhận định thêm :
« Quy
mô của các doanh nghiệp thương mại Trung Quốc thật sự đáng kinh ngạc. Tôi nghĩ
rằng động cơ chiến lược đối với Trung Quốc về cơ bản là phòng thủ. Họ cảm thấy
dễ bị tổn thương trước Hoa Kỳ và mạng lưới đồng minh của nước này đến mức Bắc
Kinh có nguy cơ bị gạt ra khỏi hệ thống kinh tế toàn cầu theo một cách cơ bản
nào đó. Vì vậy, tôi nghĩ rằng nỗ lực làm cho họ trở nên thiết yếu và là trung
tâm của hệ thống, một phần còn là cách để tự vệ trước sự dễ bị tổn thương đó. »
Huyết
mạch hàng hải và vai trò của PLA
Mạng lưới
cảng biển của những tập đoàn vận tải hàng hải Trung Quốc đặc biệt tập trung dày
đặc dọc theo những tuyến hàng hải thương mại nối Trung Quốc với các nguồn nhập
khẩu tài nguyên thiên nhiên ở Trung Đông và châu Phi, và với những thị trường
xuất khẩu chính ở Địa Trung Hải. Đáng chú ý đó là hơn một nửa số cảng nước
ngoài mà một công ty Trung Quốc có cổ phần là nằm dọc theo tuyến hàng hải chạy
từ duyên hải Trung Quốc băng qua Biển Đông và eo biển Malacca, xuyên qua Ấn Độ
Dương, nối với Vịnh Ba Tư, hay đi qua Biển Đỏ và kênh đào Suez, rồi vào Địa
Trung Hải.
Bắc Kinh
coi việc bảo đảm an ninh cho « huyết mạch hàng hải » này cũng
như tại những cảng biển nằm gần các « nút thắt hàng hải » như
eo biển Ormuz và eo biển Malacca là một « nhiệm vụ chiến lược » mà
Quân Giải phóng Nhân dân – PLA phải hoàn thành. Nhiệm vụ này đã được chính phủ
Trung Quốc công bố trong sách lược quân sự quốc phòng năm 2015, nhằm bảo vệ những
lợi ích và dòng chảy thương mại của Trung Quốc ở nước ngoài.
Đối với Bắc
Kinh, các cảng biển không chỉ hấp dẫn về mặt thương mại, mà còn có giá trị cho
việc triển khai sức mạnh hải quân. Việc kiểm soát được những cảng biển quan trọng
cho phép hải quân Trung Quốc có những hoạt động triển khai dài ngày ngoài khu vực
mà không cần có các căn cứ quân sự ở nước ngoài, đồng thời cho phép cung cấp những
dịch vụ hậu cần chính yếu và đáng tin cậy. Tầu chiến Trung Quốc có thể cập cảng
để tiếp nhiên liệu, thay dầu nhớt, tiếp tế vật liệu, trang thiết bị và nhân sự,
thậm chí có thể tiến hành các hoạt động bảo trì, tu sửa…
Ngoài ra,
những cảng biển này còn giúp gia tăng khả năng thu thập thông tin tình báo cho
Bắc Kinh, vì những nhà khai thác cầu cảng Trung Quốc có những thông tin đặc quyền
về những chuyển dịch tầu thuyền và giao thương hàng hóa. Những dữ liệu thu thập
được còn trở nên quý giá hơn khi những kiện hàng quân sự và hoạt động cảng biển
được giám sát.
Theo quan
sát của hai nhà nghiên cứu Mỹ, những cảng biển do Trung Quốc kiểm soát thường nằm
cùng một điểm với các căn cứ quân sự của các nước chủ nhà như cảng biển Haifa của
Israel, những cầu cảng thương mại cung cấp những địa điểm thuận tiện để quan
sát các chiến dịch thông thường, nhân sự, những đòi hỏi và các chuyển dịch của
quân đội các nước khác.
Điều này
giải thích vì sao năm 2017, chính quyền Donald Trump đã ra sức ngăn chặn tập đoàn
Cosco của Trung Quốc – vốn đã có những hoạt động đầu tư tại các cảng Los
Angeles, Long Beach và Seattle của Mỹ - tiếp quản hoạt động của một cảng
container ở Long Beach khi viện dẫn lý do an ninh quốc gia.
Ông Costas
Paris, phóng viên kỳ cựu của The Wall Street Journal, giải thích : « Ngày
càng có nhiều nghi ngờ là bất cứ thứ gì do Trung Quốc kiểm soát đều được sử dụng
để dọ thám Hoa Kỳ. Chính phủ Mỹ đã tiến hành các thủ tục để xem liệu các cần cẩu
ở Mỹ, do Trung Quốc sản xuất, có được dùng để theo dõi các hoạt động cảng biển
hay không. »
Nỗi
lo an ninh của Mỹ
Tuy nhiên,
điều khiến Washington đặc biệt lo lắng là mối liên hệ chặt chẽ giữa các tập
đoàn khai thác cảng biển của Trung Quốc với chính quyền Bắc Kinh và quân đội
PLA. Hoạt động đầu tư cảng biển ở nước ngoài chỉ do ba hãng chính của Trung Quốc
thực hiện bao gồm hai tập đoàn nhà nước là Cosco Shipping Ports, China
Merchants Port, và một hãng tư nhân Hutchison Ports, đóng trụ sở tại Hồng Kông.
Đây là những
hãng mà chính phủ Trung Quốc là cổ đông chính và lãnh đạo hãng là do Đảng – Nhà
nước bổ nhiệm (ngoại trừ Hutchison Ports). Điều này sẽ tạo thuận lợi cho Bắc
Kinh áp đặt và đạt được các mục tiêu kinh tế - chính trị - an ninh trong chính
sách đối ngoại rộng lớn của mình. Hơn nữa, nhìn từ góc độ chiến lược, việc kiểm
soát hoàn toàn các hoạt động cảng biển, giúp cho doanh nghiệp Trung Quốc quyết
định toàn bộ sự phát triển của cụm cảng, hạn chế hay loại trừ một số tầu nhất định
quyền tiếp cận các dịch vụ, và thậm chí hỗ trợ các hoạt động hải quân gây thiệt
hại cho các hoạt động thương mại.
Isaac
Kardon và Wendy Leutert, tác giả bài nghiên cứu « Sức mạnh cảng biển của
Trung Quốc », còn chỉ ra rằng Trung Quốc ban hành nhiều điều luật và
quy định bắt buộc các doanh nghiệp Trung Quốc cung cấp tài sản của họ cho mục
đích quân sự. Và nhất là kể từ năm 2015, Bắc Kinh có những cải cách quân sự sâu
rộng nhằm tích hợp hơn nữa các nguồn lực và cơ sở dân sự trong các hoạt động
thông thường của quân đội.
Làm thế
nào ngăn chặn đà bành trướng « cảng biển » của Trung Quốc ? Nếu
như Mỹ có thể viện dẫn lý do an ninh quốc gia để cản trở các hoạt động đầu tư cảng
biển của Trung Quốc, thì tại châu Âu, những nỗ lực của Washington vấp phải thái
độ do dự từ nhiều nước đồng minh, mà vụ chuyển nhượng một phần vốn của cảng
Hamburg, cảng biển lớn nhất của Đức là một ví dụ điển hình.
Bất chấp
những chỉ trích từ Mỹ và nhiều chính đảng trong nước, chính phủ của thủ tướng
Olaf Scholz vẫn quyết định để tập đoàn Cosco của Trung Quốc tham gia 24,9% cổ
phần, thay vì 35% như ý định ban đầu. Về điểm này, ông Costas Paris nhận xét:
« Hoa
Kỳ có thể cho lời khuyên và thúc ép bất kỳ nước nào không chấp nhận các khoản đầu
tư của Trung Quốc. Nhưng đó lại là một vấn đề nan giải cho những nước này, bởi
vì Trung Quốc có nhiều tiền để đầu tư, điều đó có nghĩa là những đầu tư này sẽ
tạo ra việc làm, và cải thiện ngành sản xuất của những nước đó (…) Trong quá khứ,
những khoản đầu tư nhỏ như vậy thậm chí không gây chú ý. Điều này cho thấy mối
quan hệ giữa Trung Quốc với phương Tây căng thẳng như thế nào. »
Thương
cảng : Công cụ phô trương sức mạnh hải quân, răn đe đối thủ
Tuy nhiên,
những nỗ lực ngoại giao này của Washington lại có được một thành công khi
Croatia, một thành viên khác của Liên Hiệp Châu Âu, hủy một thỏa thuận ký kết với
Trung Quốc nhằm khai thác một bến cảng container tại Rijeka và giao quyền khai
thác cho một tập đoàn Đan Mạch là Maersk. Gần với kênh đào Suez và là cửa ngõ
vào thị trường Trung Âu, cảng biển Rijeka có một vị trí chiến lược quan trọng.
Tầu chiến hải quân Mỹ và NATO đôi khi sử dụng để vận chuyển trang thiết bị quân
sự ra vào châu Âu. Nếu Trung Quốc nắm quyền khai thác, điều đó sẽ gây khó khăn
cho những hoạt động quân sự của Mỹ và NATO.
Tại châu
Phi, nếu như Hoa Kỳ có hàng chục thỏa thuận mở căn cứ quân sự, Trung Quốc chỉ
có một ở Djibouti, thì các công ty của Mỹ chẳng có lấy một cảng thương mại nào,
trái ngược hoàn toàn so với các hãng của Trung Quốc. Giới chức Mỹ lo ngại việc
Trung Quốc thiết lập các mối quan hệ thông qua các cảng thương mại để mở thêm
căn cứ quân sự thường trực ở châu Phi, phía bên bờ Đại Tây Dương như khu vực được
coi là sân sau của Mỹ. Một khả năng mà nhà Costas Paris nêu lên là một ngày nào
đó có nguy cơ nhìn thấy tầu chiến Trung Quốc cập bờ đông Đại Tây Dương, như tại
Guinea Xích Đạo chẳng hạn.
Nhìn
chung, hai tác giả nghiên cứu nhìn nhận trong một chừng mực nào đó, khả năng
tác chiến hiệu quả của PLA từ mạng lưới thương cảng của Trung Quốc vào thời chiến
dường như vẫn còn hạn chế. Nhưng trong thời bình, sức mạnh quân sự của hải quân
Trung Quốc được triển khai từ hệ thống thương cảng đang tái cấu trúc lại diện mạo
an ninh thế giới. Sự hiện diện thường trực của PLA tại những điểm chiến lược
quan trọng có thể buộc hải quân các nước khác phải thay đổi vị thế quân sự và
các hoạt động thông thường, tác động đến nhận thức của thế giới về năng lực
quân sự của Trung Quốc và có thể nhằm mục tiêu răn đe các quốc gia nào thách thức
Trung Quốc để bảo vệ tài sản và các lợi ích kinh tế của mình.
----------------------------
CÁC NỘI
DUNG LIÊN QUAN
Liên
Hiệp Châu Âu từng cảnh báo Đức về việc bán cảng Hamburg cho Trung Quốc
SRI
LANKA - TRUNG QUỐC - HÀNG HẢI
Sri
Lanka nhượng một cảng chiến lược cho Trung Quốc
No comments:
Post a Comment