Henry Kissinger: Làm thế nào để tránh xảy ra Thế chiến 3?
(P1)
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2023/06/01/henry-kissinger-lam-the-nao-de-tranh-xay-ra-the-chien-3-p1/
Mỹ và Trung Quốc phải học cách chung sống. Họ chỉ
còn chưa đầy 10 năm nữa.
Henry
Kissinger
Tại Bắc Kinh, người ta đã đi đến kết luận rằng Mỹ sẽ làm bất cứ điều gì để
kìm hãm Trung Quốc. Còn tại Washington, người ta quả quyết rằng Trung Quốc đang
âm mưu thay thế Mỹ trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. Nếu muốn nghe một
phân tích tỉnh táo hơn về cuộc cạnh tranh này – và một kế hoạch để ngăn không
cho cạnh tranh leo thang thành cuộc chiến giữa các siêu cường – hãy ghé thăm tầng
33 của một tòa nhà theo phong cách Art Deco ở trung tâm Manhattan, văn phòng của
Henry Kissinger.
Ngày 27/05 vừa qua, Kissinger đã bước sang tuổi 100. Chẳng ai có nhiều
kinh nghiệm về các vấn đề quốc tế hơn ông, đầu tiên với tư cách là một học giả
về ngoại giao thế kỷ 19, sau đó là cố vấn an ninh quốc gia và ngoại trưởng Mỹ, và
trong 46 năm qua với tư cách là nhà tư vấn và đặc phái viên đến gặp các quốc
vương, tổng thống, và thủ tướng. Kissinger hiện đang lo lắng. Ông nói, “Cả hai
bên đều đã tự thuyết phục rằng bên kia là một mối nguy hiểm chiến lược. Chúng
ta đang thẳng tiến tới cuộc đối đầu giữa các cường quốc.”
Cuối tháng 4, The Economist đã có dịp trò chuyện với Kissinger suốt
hơn 8 tiếng đồng hồ về cách ngăn chặn cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ trở
thành chiến tranh. Những ngày này, lưng ông đã khom hơn, việc đi lại cũng khó
khăn, nhưng tâm trí của Kissinger vẫn rất nhạy bén. Ông đang viết hai cuốn sách
tiếp theo của mình, về trí tuệ nhân tạo (AI) và bản chất của các liên minh, và
vẫn chủ trương hướng tới tương lai, hơn là nhìn về quá khứ.
Kissinger quan ngại cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung để giành ưu thế về công nghệ
và kinh tế ngày càng trở nên gay gắt. Trong khi người Nga dần rơi vào quỹ đạo của
Trung Quốc và chiến tranh đang phủ bóng sườn phía đông châu Âu, ông lo rằng AI
sẽ làm cạnh tranh Mỹ-Trung thêm trầm trọng. Trên khắp thế giới, cân bằng quyền
lực và nền tảng công nghệ của chiến tranh đang thay đổi quá nhanh và theo quá
nhiều cách, khiến các quốc gia không thể tìm ra một nguyên tắc ổn định nào để
có thể thiết lập trật tự. Nếu không thể tìm ra được một nguyên tắc, họ có thể
dùng đến vũ lực. Ông nói, “Chúng ta đang ở trong một tình huống kinh điển trước
Thế chiến 1, khi mà không bên nào có đủ khả năng để nhượng bộ chính trị, và bất
kỳ sự xáo trộn sự cân bằng nào cũng có thể dẫn đến những hậu quả thảm khốc”.
Hãy
nghiên cứu thêm về chiến tranh
Kissinger bị nhiều người chỉ trích là hiếu chiến vì vai trò của ông trong
chiến tranh Việt Nam, nhưng ông coi việc tránh để xảy ra xung đột giữa các cường
quốc là trọng tâm trong các nghiên cứu của mình. Sau khi chứng kiến sự tàn bạo
của Đức Quốc Xã, và chịu đựng nỗi đau mất 13 người thân trong Thảm sát
Holocaust, ông tin rằng cách duy nhất để ngăn chặn xung đột tàn khốc là ngoại
giao cứng rắn, lý tưởng nhất là được củng cố bằng các giá trị chung. “Đây là vấn
đề phải được giải quyết,” ông nói. “Và tôi tin rằng mình đã dành cả đời để cố gắng
giải quyết nó.” Theo quan điểm của ông, số phận của nhân loại phụ thuộc vào việc
Mỹ và Trung Quốc có thể hòa thuận với nhau hay không. Ông cũng tin rằng sự tiến
bộ nhanh chóng của AI sẽ khiến hai bên chỉ còn 5 đến 10 năm để tìm ra cách cùng
chung sống.
Kissinger có vài lời khuyên cho các nhà lãnh đạo đầy tham vọng: “Hãy
thành thật biết mình đang ở đâu.” Trên tinh thần đó, điểm xuất phát để tránh nổ
ra chiến tranh là phân tích sự bồn chồn ngày một lớn dần ở Trung Quốc. Dù nổi
tiếng với chủ trương hòa giải với chính phủ Bắc Kinh, ông thừa nhận rằng nhiều
nhà tư tưởng Trung Quốc tin rằng nước Mỹ đang trên đà đi xuống và “do đó, theo
quá trình tiến hóa lịch sử, cuối cùng họ sẽ thay thế chúng ta.”
Ông tin rằng giới lãnh đạo Trung Quốc đã phẫn nộ khi các nhà hoạch định
chính sách phương Tây nói về một trật tự toàn cầu dựa trên luật lệ, trong khi
điều họ thực sự muốn nhắc đến là luật lệ của Mỹ và trật tự của Mỹ. Các nhà lãnh
đạo Trung Quốc cảm thấy bị xúc phạm bởi những gì họ coi là một thỏa thuận trịch
thượng do phương Tây đưa ra, để trao cho Trung Quốc các đặc quyền nếu nước này
chịu hành xử theo ý họ (Bắc Kinh chắc chắn cho rằng các đặc quyền đó lẽ ra phải
là của họ, với tư cách là một cường quốc đang lên). Thật vậy, một số người ở
Trung Quốc nghĩ rằng Mỹ sẽ không bao giờ đối xử bình đẳng với họ và thật ngu ngốc
khi tưởng tượng rằng điều đó có thể trở thành hiện thực.
Tuy nhiên, Kissinger cũng cảnh báo không nên hiểu sai tham vọng của Trung
Quốc. Tại Washington, “Người ta nói rằng Trung Quốc muốn thống trị thế giới…
Câu trả lời là họ [Trung Quốc] muốn trở nên hùng mạnh,” ông nói. “Họ không hướng
tới sự thống trị thế giới theo kiểu Hitler. Đó không phải là cách họ nghĩ hoặc
từng nghĩ về trật tự thế giới.”
Vào thời Đức Quốc Xã, chiến tranh là không thể tránh khỏi vì Adolf Hitler
cần nó, Kissinger nói, nhưng Trung Quốc thì khác. Ông đã gặp nhiều nhà lãnh đạo
Trung Quốc, trước tiên là Mao Trạch Đông. Ông không nghi ngờ gì về cam kết ý thức
hệ của họ, nhưng cam kết đó luôn gắn liền với nhận thức sâu sắc về lợi ích và
khả năng của đất nước họ.
Kissinger nhìn nhận hệ thống của Trung Quốc theo Nho giáo hơn là Marxist.
Một hệ thống dạy cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc cách đạt được sức mạnh tối đa
mà đất nước họ có thể đạt được, và cách giúp họ được tôn trọng vì những thành tựu
của mình. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn được công nhận là người ra quyết định
cuối cùng trong hệ thống quốc tế về lợi ích của mình. “Nếu họ thực sự đạt được
ưu thế, liệu họ có dùng nó để áp đặt văn hóa Trung Quốc hay không?”, ông đặt
câu hỏi. “Tôi không biết. Bản năng của tôi bảo rằng không…[Nhưng] tôi tin rằng
chúng ta đủ khả năng ngăn chặn tình huống đó xảy ra, bằng sự kết hợp giữa ngoại
giao và vũ lực.”
Một phản ứng tự nhiên của Mỹ trước tham vọng của Trung Quốc là thăm dò,
như một cách để xác định cách duy trì trạng thái cân bằng giữa hai cường quốc.
Một phản ứng khác là thiết lập một cuộc đối thoại lâu dài giữa Trung Quốc và Mỹ.
Trung Quốc “đang cố gắng đóng một vai trò toàn cầu. Tại mỗi thời điểm, chúng ta
phải đánh giá xem các khái niệm về vai trò chiến lược của hai bên có tương
thích với nhau hay không.” Nếu không, thì câu hỏi về vũ lực sẽ nảy sinh. “Liệu
Trung Quốc và Mỹ có thể cùng tồn tại mà không có mối đe dọa chiến tranh toàn diện
không? Tôi đã nghĩ và vẫn nghĩ rằng điều đó là có thể.” Nhưng ông thừa nhận
thành công không phải là điều chắc chắn. “Vẫn có thể thất bại,” ông nói. “Và do
đó, chúng ta phải đủ mạnh về mặt quân sự để chống chọi với thất bại.”
Bài kiểm tra cấp bách hiện nay là Trung Quốc và Mỹ sẽ hành xử ra sao
trong vấn đề Đài Loan. Kissinger hồi tưởng, trong chuyến thăm đầu tiên của
Richard Nixon tới Trung Quốc vào năm 1972, chỉ có Mao mới có thẩm quyền đàm
phán về hòn đảo này. “Bất cứ khi nào Nixon nói về một chủ đề nào đó, Mao đều
đáp ‘Tôi là một triết gia. Tôi không giải quyết những chuyện này. Hãy để Chu Ân
Lai và Kissinger thảo luận về chúng.’ …Nhưng khi nhắc đến Đài Loan, ông ấy rất
rõ ràng. Ông tuyên bố, ‘Họ là lũ phản cách mạng. Giờ thì chúng tôi chưa cần hòn
đảo. Chúng tôi có thể đợi 100 năm. Một ngày nào đó chúng tôi sẽ giành lại hòn đảo.
Nhưng đó là một ngày rất xa.’”
Kissinger tin rằng sự thấu hiểu giữa Nixon và Mao đã bị Donald Trump phá
huỷ chỉ sau 50 năm, chứ không đến 100 năm. Cựu tổng thống Mỹ muốn thổi phồng
hình ảnh cứng rắn của mình bằng cách ép Trung Quốc nhượng bộ về thương mại. Về
chính sách, chính quyền Biden cũng đã tiếp bước Trump, nhưng là với luận điệu tự
do.
Kissinger sẽ không chọn hành động như vậy đối với Đài Loan, bởi vì một cuộc
chiến kiểu Ukraine sẽ phá hủy hòn đảo và tàn phá nền kinh tế thế giới. Chiến
tranh cũng có thể gây khó khăn cho nội bộ Trung Quốc, và nỗi sợ hãi lớn nhất của
các nhà lãnh đạo nước này vẫn là biến động trong nước.
Nỗi sợ chiến tranh tạo ra cơ sở cho hy vọng. Vấn đề là không bên nào có
khả năng để nhượng bộ. Mọi nhà lãnh đạo Trung Quốc đều khẳng định mối liên hệ của
đất nước họ với Đài Loan. Tuy nhiên, đồng thời, “theo tiến trình phát triển cho
đến nay, Mỹ không thể đơn giản từ bỏ Đài Loan mà không làm suy yếu vị thế của
mình ở những nơi khác.”
Con đường mà Kissinger chọn để thoát khỏi bế tắc này là dựa trên kinh
nghiệm ngoại giao của ông. Ông sẽ bắt đầu bằng cách hạ nhiệt tình hình, sau đó
dần xây dựng lòng tin và quan hệ. Thay vì liệt kê tất cả những bất bình của hai
bên, tổng thống Mỹ nên nói với người đồng cấp Trung Quốc, “Thưa Chủ tịch, hai mối
nguy hiểm lớn nhất đối với hòa bình thế giới hiện nay chính là hai đất nước của
chúng ta. Theo nghĩa là chúng ta có khả năng hủy diệt loài người.” Trung Quốc
và Mỹ, dù không chính thức công bố điều gì, sẽ cùng đặt mục đích tự kiềm chế.
Chưa bao giờ là người hâm mộ các nhóm hoạch định chính sách lớn,
Kissinger muốn chỉ có một nhóm nhỏ các cố vấn, dễ tiếp cận, thảo luận với nhau,
ngấm ngầm làm việc cùng nhau. Về cơ bản, không bên nào thay đổi lập trường của
mình đối với Đài Loan, nhưng Mỹ sẽ điều chỉnh cách họ triển khai lực lượng của
mình và cố gắng không làm dấy lên nghi ngờ rằng họ ủng hộ nền độc lập của hòn đảo.
Lời khuyên thứ hai của Kissinger dành cho các nhà lãnh đạo là “Xác định
các mục tiêu có thể giúp tập hợp người dân. Tìm ra những phương tiện, những
phương tiện có thể mô tả thành lời, để đạt được các mục tiêu này.” Đài Loan chỉ
là điều đầu tiên trong những lĩnh vực mà các siêu cường có thể tìm thấy tiếng
nói chung, theo đó thúc đẩy sự ổn định toàn cầu.
Trong một bài phát biểu gần đây, Janet Yellen, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, gợi
ý rằng những lĩnh vực này nên bao gồm biến đổi khí hậu và kinh tế. Kissinger
hoài nghi về cả hai. Dù ông ủng hộ các hành động về khí hậu, nhưng ông không chắc
liệu chúng có làm được gì nhiều để tạo ra niềm tin hoặc giúp thiết lập cân bằng
giữa hai siêu cường. Về kinh tế, mối nguy là chương trình nghị sự thương mại có
thể bị tấn công bởi phe diều hâu, những người không sẵn lòng cho Trung Quốc bất
kỳ cơ hội nào để phát triển.
Thái độ “không khoan nhượng” này sẽ trở thành mối đe dọa cho hành trình
tìm kiếm sự hòa hoãn. Nếu Mỹ muốn tìm cách chung sống với Trung Quốc, thì họ
không nên đặt mục tiêu thay đổi chế độ. Kissinger rút ra kết luận từ một chủ đề
vẫn luôn hiện diện trong suy nghĩ của ông ngay từ đầu. Ông nói, “Bất kỳ chính
sách ngoại giao ổn định nào cũng phải có một vài yếu tố của thế giới thế kỷ 19.
Và thế giới thế kỷ 19 dựa trên mệnh đề rằng sự tồn tại của các quốc gia cạnh
tranh với nhau không phải là vấn đề.”
Nhiều người Mỹ tin rằng một Trung Quốc bại trận sẽ trở nên dân chủ và hòa
bình. Nhưng dù muốn Trung Quốc trở thành một nền dân chủ đến mức nào, Kissinger
cũng không thể tìm ra tiền lệ cho kết quả đó. Kịch bản khả dĩ hơn là sự sụp đổ
của chế độ cộng sản sẽ dẫn đến một cuộc nội chiến, kéo theo là xung đột ý thức
hệ, và chỉ làm tăng thêm bất ổn toàn cầu. “Đẩy Trung Quốc đến chỗ tan rã không
phải là lợi ích của chúng ta,” ông nói.
Thay vào đó, Mỹ sẽ phải thừa nhận Trung Quốc cũng có lợi ích riêng. Một
ví dụ điển hình là Ukraine.
Chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình, gần đây đã liên lạc với Volodymyr
Zelensky, người đồng cấp Ukraine, lần đầu tiên kể từ khi Nga xâm lược Ukraine
vào tháng 2 năm ngoái. Nhiều nhà quan sát đã xem lời kêu gọi của Tập là một
hành động bề ngoài, với mục đích xoa dịu châu Âu, những người phàn nàn rằng
Trung Quốc đã quá gần gũi với Nga. Ngược lại, Kissinger coi đó là một tuyên bố
về ý định nghiêm túc, thứ sẽ làm phức tạp thêm tình hình ngoại giao xoay quanh
cuộc chiến, nhưng cũng chính là thứ sẽ tạo ra cơ hội để các siêu cường xây dựng
lòng tin lẫn nhau.
Kissinger bắt đầu bài phân tích của mình bằng việc lên án tổng thống Nga,
Vladimir Putin. “Sau cùng thì, chắc chắn là Putin đã phán đoán sai lầm thảm khốc,”
ông nói. Nhưng phương Tây không phải là không có lỗi. “Tôi nghĩ rằng quyết định…
để ngỏ tư cách thành viên NATO của Ukraine là rất sai lầm.” Điều đó đã gây bất ổn,
bởi việc mập mờ về sự bảo vệ của NATO mà không có kế hoạch hiện thực hóa nó đã
khiến Ukraine được phòng thủ một cách yếu kém, dù sự bảo vệ của NATO chắc chắn
sẽ khiến không chỉ Putin mà còn nhiều đồng bào của ông tức giận.
Nhiệm vụ bây giờ là phải kết thúc chiến tranh mà không tạo tiền đề cho
vòng xung đột tiếp theo. Kissinger nói rằng ông muốn Nga từ bỏ phần lãnh thổ mà
họ đã sáp nhập vào năm 2014 càng nhiều càng tốt, nhưng nhiều khả năng, trong bất
kỳ lệnh ngừng bắn nào, Nga chí ít cũng sẽ giữ lại Sevastopol (thành phố lớn nhất
ở Crimea và là căn cứ hải quân chính của Nga ở Biển Đen). Một thỏa thuận như vậy,
trong đó Nga mất một số lợi ích nhưng giữ lại được những lợi ích khác, có thể
khiến cả Nga lẫn Ukraine đều bất mãn.
Theo quan điểm của Kissinger, đó là một công thức cho sự đối đầu trong
tương lai. Ông nói, “Tôi nghĩ những gì người châu Âu đang nói là cực kỳ nguy hiểm.
Bởi vì người châu Âu đang nói: ‘Chúng tôi không muốn họ [Ukraine] gia nhập
NATO, vì điều đó quá mạo hiểm. Do đó, chúng tôi sẽ vũ trang cho họ hết mức có
thể và cung cấp cho họ những vũ khí tiên tiến nhất.’” Kết luận của ông rất rõ
ràng: “Chúng ta hiện đã trang bị vũ khí cho Ukraine đến mức nước này sẽ là quốc
gia được trang bị vũ khí tốt nhất, với đội ngũ lãnh đạo ít kinh nghiệm chiến lược
nhất ở châu Âu.”
Để thiết lập một nền hòa bình lâu dài ở châu Âu đòi hỏi phương Tây phải
có hai bước nhảy vọt về tư duy. Đầu tiên là cho phép Ukraine gia nhập NATO, như
một phương tiện để kiềm chế, cũng như bảo vệ nước này. Thứ hai là châu Âu cần
xây dựng một quan hệ hợp tác với Nga, như một cách để tạo ra một biên giới phía
đông ổn định.
Nhiều quốc gia phương Tây sẽ chùn bước trước mục tiêu này hay mục tiêu
khác. Và xét đến sự can dự của Trung Quốc, với tư cách là đồng minh của Nga và
đối thủ của NATO, nhiệm vụ sẽ càng trở nên khó khăn hơn. Trung Quốc có một lợi
ích quan trọng, là được chứng kiến Nga rời khỏi cuộc chiến ở Ukraine một cách
nguyên vẹn. Tập Cận Bình không chỉ cần tôn vinh quan hệ đối tác “không giới hạn”
giữa ông và Putin, nhưng một sự sụp đổ ở Moscow sẽ gây rắc rối cho Trung Quốc
khi tạo ra khoảng trống quyền lực ở Trung Á, vốn có nguy cơ bị lấp đầy bởi một
“cuộc nội chiến kiểu Syria”.
(Còn tiếp một phần)
*
Henry Kissinger: Làm thế nào để tránh xảy ra Thế chiến 3?
(P2)
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2023/06/02/henry-kissinger-lam-the-nao-de-tranh-xay-ra-the-chien-3-p2/
Sau cuộc điện đàm của Tập và Zelensky, Kissinger tin rằng Trung Quốc có lẽ
đang tìm cách định vị mình là trung gian hòa giải giữa Nga và Ukraine. Là một
trong những kiến trúc sư của chính sách khiến Mỹ và Trung Quốc cùng chống lại
Liên Xô, ông nghi ngờ về việc Trung Quốc và Nga có thể hợp tác với nhau. Đúng
là họ cùng ngờ vực người Mỹ, nhưng ông cũng tin rằng họ có bản năng không tin
tưởng lẫn nhau. Ông nói, “Tôi chưa bao giờ gặp một nhà lãnh đạo Nga nào nói điều
gì tốt đẹp về Trung Quốc. Và tôi cũng chưa bao giờ gặp một nhà lãnh đạo Trung
Quốc nào nói điều gì tốt đẹp về Nga.” Họ không phải là đồng minh tự nhiên.
Kissinger nhận định rằng việc Trung Quốc can dự về mặt ngoại giao trong vấn
đề Ukraine là một biểu hiện của lợi ích quốc gia. Dù họ từ chối tán thành việc
hủy diệt Nga, nhưng họ công nhận rằng Ukraine nên tiếp tục là một quốc gia độc
lập, và họ đã cảnh báo chống lại việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Họ thậm chí có
thể chấp nhận mong muốn gia nhập NATO của Ukraine. Ông nói, “Trung Quốc làm vậy
một phần vì họ không muốn xung đột với Mỹ. Họ đang tạo ra trật tự thế giới của
riêng mình, trong chừng mực có thể.”
Lĩnh vực thứ hai mà Trung Quốc và Mỹ cần thảo luận là AI. Ông nói: “Chúng
ta đang ở thời kỳ đầu khi mà máy móc có thể gây ra dịch bệnh toàn cầu hoặc các
đại dịch khác, không chỉ về hạt nhân, mà trong bất kỳ lĩnh vực nào có thể hủy
diệt nhân loại.”
Ông thừa nhận rằng ngay cả những chuyên gia về AI cũng không biết được sức
mạnh thực sự của nó (bằng chứng là việc gỡ băng cuộc trao đổi này khi Kissinger
nói tiếng Anh bằng giọng Đức đặc sệt vẫn nằm ngoài khả năng của nó). Nhưng
Kissinger tin rằng AI sẽ trở thành yếu tố then chốt trong an ninh trong vòng 5
năm tới. Ông so sánh tiềm năng đột phá của nó với việc phát minh ra máy in,
công cụ truyền bá những ý tưởng góp phần gây ra các cuộc chiến tranh tàn khốc
trong thế kỷ 16 và 17.
Kissinger cảnh báo, “[Chúng ta đang sống] trong một thế giới tàn bạo chưa
từng thấy. Bất chấp lý thuyết rằng luôn phải có sự giám sát của con người, vũ
khí tự động và không thể ngăn cản có thể được tạo ra. “Nếu nhìn vào lịch sử
quân sự, có thể nói chúng ta chưa bao giờ có thể tiêu diệt hết đối thủ, do các
hạn chế về địa lý và độ chính xác. [Nhưng giờ đây] không còn giới hạn nào. Mọi
kẻ thù đều dễ bị tổn thương 100%.”
AI không thể bị hủy bỏ. Do đó, Trung Quốc và Mỹ sẽ cần khai thác sức mạnh
quân sự của mình đến một chừng mực nào đó, như một biện pháp răn đe. Nhưng họ
cũng cần hạn chế mối đe dọa mà AI gây ra, như cách mà các cuộc đàm phán kiểm
soát vũ khí đã hạn chế mối đe dọa từ vũ khí hạt nhân. Ông nói, “Tôi nghĩ chúng
ta phải bắt đầu trao đổi với nhau về tác động của công nghệ. Chúng ta phải từng
bước hướng tới việc kiểm soát vũ khí, trong đó mỗi bên trình bày cho bên kia những
tài liệu về năng lực của vũ khí”. Thật vậy, ông tin rằng bản thân các cuộc đàm
phán có thể giúp xây dựng lòng tin lẫn nhau và sự tự tin để cho phép các siêu
cường tự kiềm chế. Bí mật nằm ở các nhà lãnh đạo đủ mạnh mẽ và khôn ngoan để hiểu
rằng: không được đẩy AI đến giới hạn của nó. “Nếu anh dựa hoàn toàn vào những
gì mình có thể đạt được thông qua sức mạnh, thì anh có khả năng sẽ hủy diệt thế
giới.”
Lời khuyên thứ ba của Kissinger dành cho các nhà lãnh đạo là “hãy liên kết
tất cả những điều này với các mục tiêu trong nước của anh, bất kể chúng là gì.”
Đối với Mỹ, điều đó liên quan đến việc học cách trở nên thực dụng hơn, tập
trung vào phẩm chất của nhà lãnh đạo, và trên hết, đổi mới văn hóa chính trị của
đất nước.
Mô hình tư duy thực dụng của Kissinger là Ấn Độ. Ông kể lại một sự kiện
mà trong đó một cựu quan chức cấp cao của Ấn Độ đã giải thích rằng chính sách đối
ngoại nên dựa trên các liên minh không kéo dài, chỉ nhằm giải quyết vấn đề,
thay vì ràng buộc một quốc gia trong các cấu trúc đa phương lớn.
Cách tiếp cận ngắn hạn sẽ không tự nhiên đến với người Mỹ. Chủ đề xuyên
suốt cuốn sách lịch sử quan hệ quốc tế kinh điển của Kissinger, cuốn Diplomacy (Ngoại
giao), là việc Mỹ khăng khăng mô tả tất cả các can thiệp chính của họ ở nước
ngoài là biểu hiện cho vận mệnh của họ, nhằm tái tạo thế giới theo hình ảnh của
chính nước này – một xã hội tự do, dân chủ, tư bản chủ nghĩa.
Vấn đề đối với Kissinger nằm ở hệ quả của lối nghĩ đó, rằng các nguyên tắc
đạo đức thường cao hơn lợi ích – ngay cả khi chúng không tạo ra sự thay đổi
mong muốn. Ông thừa nhận rằng nhân quyền là quan trọng, nhưng không đồng ý với
việc xem nó là trung tâm của chính sách đối ngoại. Dù chúng ta có cố gắng áp đặt
nguyên tắc, hay nói rằng việc đó sẽ ảnh hưởng đến quan hệ, nhưng quyết định là ở
bên còn lại.
Ông lưu ý, “Chúng ta đã thử [áp đặt nguyên tắc] ở Sudan. Giờ thì nhìn vào
Sudan đi.” Thật vậy, việc khăng khăng đòi làm điều đúng đắn có thể trở thành
cái cớ để không suy nghĩ thấu đáo về hậu quả của chính sách. Kissinger lập luận
rằng những người muốn sử dụng vũ lực để thay đổi thế giới lại chính là những
người theo chủ nghĩa lý tưởng, dù những người theo chủ nghĩa hiện thực thường
được cho là sẽ sẵn sàng sử dụng vũ lực hơn.
Ấn Độ là một đối trọng thiết yếu đối với sức mạnh ngày càng tăng của
Trung Quốc. Tuy nhiên, nước này cũng có một hồ sơ tồi tệ về không khoan dung
tôn giáo, tư pháp thiên vị, và bịt miệng báo chí. Ngụ ý ở đây – dù Kissinger
không trực tiếp nói ra – là Ấn Độ sẽ trở thành phép thử xem liệu Mỹ có thể thực
dụng hay không. Nhật Bản là một trường hợp khác. Kissinger dự đoán quan hệ sẽ
trở nên căng thẳng nếu người Nhật bắt đầu các động thái nhằm trang bị vũ khí hạt
nhân trong vòng 5 năm tới. Với các phương pháp ngoại giao ít nhiều đã giúp gìn
giữ hòa bình trong thế kỷ 19, ông trông cậy vào Anh và Pháp để giúp Mỹ suy nghĩ
một cách chiến lược hơn về cân bằng quyền lực ở châu Á.
Người
có thể lấp đầy chỗ trống
Lãnh đạo cũng là một vấn đề quan trọng. Kissinger từ lâu đã tin vào sức mạnh
của các cá nhân. Franklin D. Roosevelt là người nhìn xa trông rộng đủ để chuẩn
bị cho một nước Mỹ theo chủ nghĩa biệt lập đối mặt với điều mà ông coi là cuộc
chiến không thể tránh khỏi chống lại các cường quốc phe Trục. Charles de Gaulle
đã trao cho nước Pháp niềm tin vào tương lai. John F. Kennedy đã truyền cảm hứng
cho cả một thế hệ. Otto von Bismarck đã đem đến sự thống nhất cho nước Đức, và
cai trị bằng sự khéo léo và khả năng kiềm chế – để rồi phải chứng kiến đất nước
của mình sụp đổ trước cơn sốt chiến tranh ngay sau khi ông từ nhiệm.
Kissinger thừa nhận rằng tin tức 24 giờ và mạng xã hội đã khiến phong
cách ngoại giao của ông trở nên khó ứng dụng hơn. Ông nói, “Tôi không nghĩ một
tổng thống ngày nay có thể cử một đặc phái viên với những quyền lực mà tôi từng
có.” Nhưng ông lập luận rằng băn khoăn về việc liệu một con đường phía trước có
khả thi hay không sẽ là một sai lầm. “Nếu anh nhìn vào những nhà lãnh đạo mà
tôi kính trọng, họ đã không hỏi câu hỏi đó. Họ hỏi, ‘Việc đó có cần thiết
không?’”
Ông nhắc đến tấm gương của Winston Lord, một nhân viên dưới quyền ông
trong chính quyền Nixon. “Khi chúng ta can thiệp vào Campuchia, anh ấy muốn bỏ
cuộc. Tôi đã nói với anh ấy, ‘Anh có thể bỏ cuộc, rồi cầm một tấm bảng đi biểu
tình quanh tòa nhà này. Hoặc anh có thể giúp giải quyết chiến tranh Việt Nam.’
Và anh ấy quyết định ở lại… Điều chúng ta cần [là] những người dám đưa ra quyết
định như vậy – rằng họ đang sống trong thời đại này, và họ muốn làm điều gì đó,
thay vì cảm thấy tiếc cho bản thân.”
Giới lãnh đạo phản ánh văn hóa chính trị của một quốc gia. Kissinger, giống
như nhiều thành viên Đảng Cộng hòa, lo ngại rằng nền giáo dục Mỹ chỉ tập trung
vào những thời khắc đen tối nhất của đất nước. Ông nói, “Để có được tầm nhìn
chiến lược, anh cần có niềm tin vào đất nước của mình.” Nhận thức chung về giá
trị của nước Mỹ đã không còn nữa.
Ông cũng phàn nàn rằng các phương tiện truyền thông thiếu nhận thức về
quy mô và khả năng phán đoán. Khi ông còn đương chức, báo chí thường thù địch,
nhưng ông vẫn đối thoại với họ. “Họ khiến tôi phát điên,” ông nói. “Nhưng đó là
một phần của công việc…họ không hành xử bất công.” Ngược lại, ngày nay, ông nói
rằng các phương tiện truyền thông không có động cơ để phản ánh sự thật. “Điều
tôi quan tâm là sự cần thiết phải cân bằng và điều độ. Hãy thể chế hóa điều đó.
Nó chính là mục tiêu.”
Tuy nhiên, điều tồi tệ nhất là chính trị. Khi Kissinger mới đến
Washington, các chính trị gia của hai đảng thường dùng bữa tối cùng nhau. Ông có
quan hệ thân thiện với George McGovern, ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ.
Kissinger tin rằng, ngày nay, đối với một cố vấn an ninh quốc gia đến từ đảng đối
lập, rất khó để làm được như ông. Gerald Ford, người lên nắm quyền sau khi
Nixon từ chức, là kiểu người mà các đối thủ có thể tin tưởng sẽ hành động đúng
đắn. Còn ngày nay, bất kỳ phương tiện nào cũng được coi là chấp nhận được.
“Tôi nghĩ Trump và giờ là Biden đã đẩy [sự thù địch] lên hàng đầu,”
Kissinger nói. Ông lo sợ rằng một sự cố như Watergate có thể dẫn đến bạo lực,
và rằng nước Mỹ sẽ không có nhà lãnh đạo chân chính. “Tôi không nghĩ Biden có
thể truyền cảm hứng và…tôi hy vọng rằng Đảng Cộng hòa có thể tìm được ai đó tốt
hơn,” ông nói. “Đây không phải là một khoảnh khắc tuyệt vời trong lịch sử,” ông
than thở, “nhưng lựa chọn còn lại là từ bỏ hoàn toàn.”
Ông tin rằng nước Mỹ đang rất cần tư duy chiến lược dài hạn. “Đó là thách
thức lớn mà chúng ta cần phải giải quyết. Nếu chúng ta không làm vậy, những dự
đoán về sự thất bại sẽ trở thành hiện thực.”
Nếu thời gian có hạn và thiếu vắng khả năng lãnh đạo, thì triển vọng để
Trung Quốc và Mỹ tìm cách chung sống hòa bình sẽ ra sao?
“Tất cả chúng ta phải thừa nhận rằng mình đang ở trong một thế giới mới,”
Kissinger nói, “vì bất cứ điều gì chúng ta làm đều có thể trở thành sai lầm. Và
không có con đường nào là chắc chắn.” Dù vậy, ông vẫn còn hy vọng. “Hãy nhìn
xem, đời tôi rất khó khăn, nhưng điều đó khiến tôi lạc quan. Khó khăn cũng là một
thử thách. Nó không phải lúc nào cũng là một trở ngại.”
Ông nhấn mạnh rằng nhân loại đã có những bước tiến dài. Đúng là tiến bộ
thường đến sau hậu quả của những xung đột khủng khiếp – chẳng hạn như sau Chiến
tranh Ba mươi năm, Chiến tranh Napoléon, và Thế chiến II, nhưng sự cạnh tranh
giữa Trung Quốc và Mỹ có thể đem lại kết cục khác. Lịch sử cho thấy rằng, khi
hai cường quốc thuộc loại này chạm trán với nhau, kết quả bình thường là xung đột
quân sự. “Nhưng đây không phải là một tình huống bình thường,” Kissinger lập luận,
“vì vũ khí hủy diệt hàng loạt và trí tuệ nhân tạo.”
“Tôi cho rằng có thể tạo ra một trật tự thế giới trên cơ sở các nguyên tắc
mà châu Âu, Trung Quốc, và Ấn Độ có thể chia sẻ, và đó đã là một phần tốt đẹp của
nhân loại. Vì vậy, nếu nhìn vào tính thực tế, mọi chuyện có thể kết thúc tốt đẹp
– hoặc ít nhất cũng có thể kết thúc mà không có thảm họa, và chúng ta có thể đạt
được bước tiến.”
Đó là nhiệm vụ dành cho các nhà lãnh đạo của các siêu cường ngày nay.
Kissinger giải thích, “Immanuel Kant từng nói rằng sẽ đạt được hòa bình hoặc nhờ
sự hiểu biết của con người, hoặc do thảm họa. Ông cho rằng hòa bình sẽ xảy ra
nhờ sự hiểu biết, nhưng ông không thể đảm bảo điều đó. Đó ít nhiều cũng là những
gì tôi đang nghĩ.”
Do đó, các nhà lãnh đạo thế giới phải gánh một trách nhiệm nặng nề. Họ cần
có chủ nghĩa hiện thực để đối mặt với những nguy hiểm phía trước, có tầm nhìn để
thấy rằng giải pháp nằm ở việc đạt được sự cân bằng lực lượng giữa các quốc
gia, và sự kiềm chế để không sử dụng tối đa sức mạnh tấn công của họ. Kissinger
nói, “Đó là một thách thức chưa từng có nhưng cũng là một cơ hội tuyệt vời.”
Tương lai của nhân loại phụ thuộc vào việc làm điều đúng đắn. Vào giờ thứ
tư của cuộc trò chuyện này, và chỉ vài tuần trước lễ kỷ niệm sinh nhật của
mình, Kissinger nói thêm với một cái nháy mắt, “Dù sao thì tôi cũng sẽ không sống
mãi ở đây để chứng kiến được hết mọi chuyện.”
---------------------
Nguồn:
Henry
Kissinger explains how to avoid world war three,
The Economist, 17/05/2023
***
Có thể bạn quan tâm:
1.
Giám đốc CIA
William Burns nói về tương lai hỗn loạn của thế giới
2.
Henry
Kissinger: Làm thế nào để tránh xảy ra Thế chiến 3? (P1)
3.
Cuộc chiến ở
Ukraine sẽ thay đổi sâu sắc tình hình địa chính trị
4.
Có phải
Trung Quốc đã đạt đến đỉnh cao quyền lực?
5.
Làm thế nào
để quản lý rủi ro từ một Trung Quốc suy yếu?
6.
Khí cầu do
thám Trung Quốc ảnh hưởng quan hệ với Mỹ như thế nào?
7.
Ngay cả
Trung Quốc cũng không tin có thể thay thế Mỹ
8.
Trung Quốc
xôn xao về phát biểu của Macron gọi Nga là ‘chư hầu’
No comments:
Post a Comment