Bảo
Ninh kể về việc đối mặt với chấn thương tâm lý ở Việt Nam
Cù
Tuấn
biên dịch
Tóm
tắt:
Nhà văn nổi tiếng người Việt Nam tâm sự về tập truyện mới “Hà Nội lúc 0 giờ” và
về những đổi thay trên đất nước ông
Bảo Ninh
được quốc tế biết đến vào năm 1991 với việc phát hành tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến
tranh”. Cuốn sách đã bị cấm ở quê hương của ông trong 15 năm do những mô tả gai
góc, thường là tàn bạo của Chiến tranh Việt Nam - được biết đến ở Việt Nam với
tên gọi kháng chiến chống Mỹ. Ninh phục vụ trong Quân đội Bắc Việt trong giai
đoạn đỉnh điểm của cuộc chiến. “Nỗi buồn chiến tranh” là tác phẩm duy nhất của
ông được xuất bản bằng tiếng Anh trong hơn 30 năm; cho đến tập truyện ngắn “Hà
Nội lúc 0 giờ,” do Texas Tech University Press phát hành đầu năm nay.
“Hà Nội
lúc 0 giờ” là một tác phẩm đánh giá lại mang tính tự sự về cuộc chiến và tác động
của chiến tranh đối với những người mà đã bị mắc kẹt trong cuộc chiến. Gồm 10
câu chuyện được viết trong 40 năm qua, cuốn sách khám phá một Việt Nam bị chiến
tranh tàn phá về môi trường, vật chất và tâm lý. Câu hỏi ngụ ý xuyên suốt: Làm
thế nào để một người tiếp tục sống sau khi đã phải trải qua sự khủng khiếp của
chiến tranh? Đó là một vấn đề vượt ra ngoài chiến tranh và câu hỏi đó có thể được
bất kỳ ai từng trải qua tổn thương hoặc mất mát sâu sắc, ghi nhận.
Thường
xuyên tránh ánh đèn sân khấu, Ninh đã đồng ý phỏng vấn này qua email. Câu trả lời
của ông, được các biên tập viên Hà Mạnh Quân và Cab Trần của “Hà Nội lúc 0 giờ”
dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, đã được chỉnh sửa để làm rõ ý.
* Trong
“Nỗi buồn chiến tranh”, ông đã viết về sự cần thiết phải hoàn thành nghĩa vụ của
mình với tư cách là một nhà văn. Nhiệm vụ đó là gì?
Thời phổ
thông, rồi những năm đi lính (1969 đến 1976), tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc trở
thành nhà văn. Sau khi chiến tranh kết thúc, vào năm 1975, tôi đã dành một năm
để thu nhặt và chôn cất xác liệt sĩ ở miền Nam. Bên cạnh xác chết của những người
lính [Quân đội Bắc Việt], nhóm của tôi cũng chôn xác những người lính và thường
dân [Nam Việt Nam]. Nhiệm vụ của tôi chỉ kéo dài một năm, nhưng nó cho tôi cảm
nhận về mức độ khốc liệt của chiến tranh, sự tàn phá mà nó để lại, đối với tôi
dường như còn phi nhân tính hơn nhiều so với sáu năm tôi ở chiến trường với tư
cách là một người lính.
Tôi xuất
ngũ năm 1976, và từ năm 1979 đến năm 1986 tôi làm lụng vất vả để nuôi sống bản
thân và gia đình. Cha tôi là giáo sư Việt ngữ học. Năm 1986, tôi nghe theo lời
khuyên của cha, nộp hồ sơ vào Trường viết văn Nguyễn Du và học với hai tác giả
có tư tưởng tiến bộ là Nguyên Ngọc và Hoàng Ngọc Hiến. Tôi bắt đầu viết văn từ
năm 1987, lúc 35 tuổi, vào thời điểm Việt Nam không còn chiến tranh. Người Pháp
đã rời khỏi đây vào năm 1954, sau đó là người Mỹ năm 1975. Chúng ta cũng không
nên quên cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc từ năm 1979 đến 1990.
Tôi nhận
ra rằng nếu tôi không tham gia chiến tranh và không là một người lính, tôi sẽ
chọn một con đường khác và không trở thành một nhà văn. Đó là lý do tại sao kể
từ khi tôi bắt đầu viết, tôi luôn viết về nỗi đau khổ của người Việt Nam và
cách họ sống trong chiến tranh. Nhưng tôi cũng viết về chiến tranh để chống lại
chiến tranh; viết về chiến tranh là viết về hòa bình - về hòa giải, tình yêu,
niềm vui, sự tha thứ và những ý tưởng nhân văn khác.
* Ông
đã viết về mối quan tâm của ông đối với tương lai của thế hệ tiếp theo. Theo
ông mọi thứ đã diễn ra như thế nào đối với thế hệ trẻ Việt Nam?
Thế hệ của
tôi và những người đã chiến đấu trong cuộc chiến đã trở thành một phần của lịch
sử. Thế hệ ngày nay, hầu hết ở độ tuổi đôi mươi, cảm thấy đã tách rời khỏi những
cuộc chiến tranh đẫm máu của thế kỷ trước. Việc họ có sống cuộc sống viên mãn
hay không phụ thuộc vào việc họ có thể từ bỏ lối suy nghĩ của thế hệ của tôi
hay không; thế hệ của của tôi thường cố gắng áp đặt thế giới quan của chúng tôi
lên thế hệ trẻ.
Giống như
tất cả các thế hệ trẻ trên khắp thế giới của chúng tôi, những người Việt Nam
sinh ra sau chiến tranh — đặc biệt là sau năm 2000 — hoàn toàn khác với thế hệ
của tôi. Văn học của họ và cách họ thể hiện bản thân thông qua nghệ thuật của họ
khác với cách thể hiện của thế hệ tôi. Không ai có thể đe dọa họ, bảo họ phải
làm gì hoặc bảo họ phải hành động như thế nào. Họ trải nghiệm thế giới và sống
cuộc sống của họ theo cách riêng của họ, và khi họ viết về nó - về những nhận
thức và trải nghiệm này - họ làm như vậy mà không bị bất kỳ một hệ tư tưởng quy
định nào áp đặt.
* Giới
văn nghệ sĩ Việt Nam đã bày tỏ sự bức xúc với chế độ kiểm duyệt ở Việt Nam. Ông
có nghĩ rằng có sự thiếu tự do ngôn luận?
Vào nửa
sau thế kỷ 20, Việt Nam là tâm điểm của Chiến tranh Lạnh. Chính trị của Việt
Nam được hệ tư tưởng cộng sản chi phối, và quốc gia này được phân loại là một
quốc gia xã hội chủ nghĩa. Trong quá khứ, văn học được biến thành vũ khí để chống
Pháp và sau đó là chống Mỹ. Văn học cũng là một vũ khí tư tưởng được sử dụng để
chống lại các học thuyết tư bản, và là một phương tiện để thúc đẩy lý tưởng cộng
sản. Vì vậy, bất kỳ tác phẩm văn học nào đi chệch khỏi chương trình nghị sự đó
đều bị kiểm duyệt.
Khi Chiến
tranh Lạnh kết thúc, Việt Nam khởi xướng chính sách Đổi mới vào năm 1986, mở cửa
với các nước ngoài khối cộng sản. Văn học và các nhà văn Việt Nam từ đó được
trao nhiều quyền tự do hơn.
* Trong
câu chuyện đầu tiên trong “Hà Nội lúc 0 giờ,” ông đã mô tả tác động của chất độc
hóa học da cam. Ông muốn người đọc biết gì về nó?
Chất
dioxin mà người Mỹ sử dụng trong chiến tranh đã - và vẫn là - một vũ khí diệt
chủng. Nhiều người Việt Nam thuộc các thế hệ sau chiến tranh đã bị nó ảnh hưởng
nặng nề và bị nó giết hại.
Kể từ khi
Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1995, Mỹ đã cố gắng
giúp Việt Nam giảm thiểu các tác động tàn phá, nhưng phải mất vài năm nữa mới đạt
được. Mặc dù chúng ta trong thế kỷ 21 đã cố gắng bảo vệ các hệ thống sinh thái
trong môi trường của mình, nhưng khoản đầu tư của chúng ta vào việc này là rất
nhỏ so với những gì chúng ta đã đầu tư vào chiến tranh. Đối với tôi, đây là đặc
điểm tự mâu thuẫn và ghê tởm nhất, vô nhân đạo và ngớ ngẩn nhất của loài người
chúng ta.
* Tại
sao người dân Việt Nam rất thân thiện và chào đón người Mỹ, kể cả những người
lính đã tham chiến?
Tháng 11
năm 2000, tôi thấy Tổng thống Bill Clinton và phu nhân đi dạo ở Hà Nội, và họ
được hàng ngàn người Việt Nam trên đường phố chào đón nồng nhiệt. Tương tự, năm
2018, Tổng thống Obama và phu nhân được người Việt ở Sài Gòn chào đón nồng nhiệt.
Từ khi ra
đời cách đây hơn 2.000 năm cho đến những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, Việt Nam
đã không ngừng tự bảo vệ mình trước sự xâm lăng của ngoại bang. Tất cả các quốc
gia xâm lược này đều vượt trội về quân sự so với người Việt Nam. Nhưng mỗi lần
bị xâm lăng, đất nước này lại phải hứng chịu những hậu quả thảm khốc: đất đai bị
biến thành tro tàn và cái chết rình rập khắp nơi. Sau mỗi cuộc xâm lược, người
dân Việt Nam, để tồn tại, không chỉ phải làm việc cật lực để xây dựng lại nhà cửa
và cộng đồng, mà còn phải đương đầu với những cơn ác mộng và những chấn thương
tâm lý tái phát do chiến tranh mang lại. Điều đó có nghĩa là chúng tôi phải học
cách nhanh chóng “gác lại quá khứ”. Để đạt được mục tiêu này, chúng tôi cần làm
hòa với những kẻ thù cũ của mình và không có ác cảm với họ, bởi vì ác cảm như vậy
có thể có hại.
* Ông cảm
nhận thế nào về người Mỹ?
Năm 1998
và 2005, tôi được một nhóm nhà văn, nhà thơ Mỹ là cựu chiến binh Việt Nam mời
sang thăm Mỹ. Họ đưa tôi đến các tiểu bang khác nhau, nơi tôi gặp một số người
Mỹ và gia đình của các cựu chiến binh Mỹ. Tương tự như vậy, nhiều nhà văn, nhà
báo, khách du lịch và cựu chiến binh Mỹ đã đến thăm tôi tại Hà Nội. Giống như
những người Việt Nam khác, tôi đã phát triển mối quan hệ thân thiết thực sự với
người Mỹ. Khi tiếp xúc với họ, tôi có cảm giác rằng hầu hết người Mỹ cũng giống
như người Việt Nam bình thường: chân thành, thân thiện, hào phóng; không khoe
khoang hay kiêu ngạo. Tôi vui mừng khi quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam
đang được cải thiện hàng ngày và hai nước luôn tôn trọng lẫn nhau.
Một mặt,
tôi rất vui khi thấy sự tôn trọng lẫn nhau này. Nhưng mặt khác, khi gợi lại quá
khứ, lòng tôi vẫn đau đáu những nỗi buồn - và niềm vui tôi cảm nhận được không
xóa nổi nỗi buồn do chiến tranh gây ra hơn nửa thế kỷ trước.
* Ông
có hy vọng gì cho tương lai của Việt Nam?
Hòa bình
mãi mãi. Chiến tranh và những đau khổ của chiến tranh phải kết thúc.
Hình : https://www.facebook.com/photo/?fbid=6574920929213198&set=a.124320747606614
Bìa sách
“Hà Nội at Midnight”
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=6574924742546150&set=p.6574924742546150&type=3
Hình ảnh
nhà văn Bảo Ninh
.
Bài gốc :
https://www.washingtonpost.com/.../bao-ninh-hanoi.../
WASHINGTONPOST.COM
Bao Ninh
on coming to terms with trauma in Vietnam
Bao Ninh on coming to terms with trauma in Vietnam
No comments:
Post a Comment