Hoà giải, hoà hợp: cánh cửa mở vào “kỷ
nguyên mới” hoà bình, an ninh và phát triển
Posted on 04/08/2025 by Boxit
VN
https://boxitvn.online/?p=94544
(Suy ngẫm
tiếp sau bài “Sau ngày Thương binh Liệt
sĩ” - 29/07/2025)
Dịp 27/7
đã qua. Nhưng ắt đối với nhiều người, những cảm xúc, tâm trạng và suy tư gắn với
những gì của cuộc chiến tranh hơn nửa thế kỷ về trước không bao giờ mất đi. Rất
nhiều người giờ đây không biết, hoặc không muốn nghĩ đến, do tuổi tác, do xuất
thân, do hoàn cảnh, và nhiều lý do khác… Nhưng với rất nhiều người khác, cuộc
chiến của hơn 50 năm về trước và những di luỵ của nó sẽ vẫn là những ký ức
không bao giờ nguôi, những hiện thực đầy ám ảnh.
“SAU
NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ” (1), bài của ông Lê Học Lãnh Vân viết sau cái
ngày đặc biệt này, là một thông điệp lay động lòng người.
Bài viết
có lẽ hướng trước hết đến những người lãnh đạo đất nước khi nhắc lại một sự thật
mà nhiều người đã biết: SỰ THẬT về hai cuộc chiến “quá khốc liệt với Việt Nam”,
và đặc biệt là cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, với ba tính chất “ý thức hệ,
nội chiến, và tính giành quyền tự chủ”. Nhưng điều căn bản mà tác giả muốn nhấn
mạnh là “cuộc đại ly tán của lòng người” do “cách hành xử thời hậu chiến” của
chính quyền.
Nhân bài
viết khai mở những tâm tư, uẩn ức là trung tâm trong đời sống tinh thần của một
bộ phận xã hội Việt Nam, chúng tôi muốn bàn thêm một số khía cạnh khác để ngõ hầu
đi sâu hơn vào sự thật, để góp phần làm rõ hơn những cội rễ của các đối kháng:
Nhìn sâu hơn vào SỰ THẬT để THẤU HIỂU, THẤU HIỂU để THƯƠNG NHAU hơn.
***
NỘI CHIẾN
VIỆT NAM và CUỘC “ĐẠI LY TÁN LÒNG NGƯỜI” do HÀNH XỬ “BẤT NHẪN” THỜI HẬU CHIẾN
Tác giả Lê
Học Lãnh Vân viết: “Cuộc chiến khốc liệt này đem tang thương tới hầu như từng
căn nhà Việt từ Bắc vào Nam, mà khi kết thúc chỉ có phân nửa con số nạn nhân được
nhớ tới thì thực khiến người ta phải sinh lòng bất nhẫn!”, “ngoài năm mươi tám
ngàn người Mỹ ngã xuống, có hàng triệu người Việt chết, bị tàn phế vì người Việt
giết nhau! Tình đồng bào và tinh thần nghĩa khí có cho phép bỏ mặc phân nửa số
người đó, coi họ không phải là nạn nhân của cuộc chiến không?”…
“Người Việt
trong hàng ngàn năm đã hun đúc tinh thần đồng bào và đùm bọc nhau. Đây là hai
giá trị cốt lõi của dân tộc, bao trùm tất cả những giá trị khác, nghĩa là những
giá trị khác nằm dưới. Khi có sự xung đột các giá trị thì giá trị nằm dưới phải
được hy sinh vì giá trị cao hơn. Cách Việt Nam cư xử hậu chiến khiến người Việt
cảm nhận các giá trị lớn nhất của dân tộc bị giẫm đạp bởi những giá trị nằm dưới,
nhỏ hơn”.
Bài viết kết
luận với một câu hỏi : “Thời gian lùi xa, sự chia rẽ đó không còn do cuộc chiến
nữa mà do cách hành xử hậu chiến, và người Việt cảm nhận cách hành xử ấy còn
kéo dài tới bây giờ!
Hòa giải,
hòa hợp đâu có xa xôi. Kỷ nguyên mới cũng trong tầm với. Chỉ cần thiết lập lại
các giá trị cốt lõi ngàn đời của dân tộc! Việc này không khó lắm với nước khác,
có quá khó với người Việt hay không?”.
“SAU
NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ” chất vấn lương tri, không chỉ với những người cầm
quyền, mà với tất cả những ai lòng hướng đến hòa giải, đoàn kết cho Việt
Nam.
***
NỘI CHIẾN
Ý THỨC HỆ (hay CHIẾN TRANH UỶ NHIỆM) chứ không phải là một cuộc NỘI CHIẾN thông
thường
Khác hẳn với
quan điểm phổ biến và trở thành chính thống ở Việt Nam, chỉ coi cuộc chiến
1954-1975 là cuộc chiến chống ngoại xâm, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
bài “SAU NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ” phơi bày tính chất nội chiến của cuộc
chiến Đông Dương lần thứ hai, điều mà dĩ nhiên không phải chỉ có tác giả mới
nhìn thấy và nói ra. Nhưng riêng việc nói ra được công khai như vậy tại Việt
Nam đã nhiều phần là cương trực và dũng cảm.
Tách rời
tính chất Nội Chiến ra khỏi tính chất Ý thức hệ để nhấn mạnh trước hết đến những
tổn thất nặng nề của người Việt, của sự đối kháng nội bộ không thể dung hoà
trong xã hội Việt Nam, đã dẫn đến cuộc chiến tàn khốc, là cần. Tuy nhiên, điều
này hẳn là không đủ. Không những thế, việc gạt hẳn sang một bên tính chất Ý thức
hệ của cuộc chiến lại có nguy cơ khiến viễn cảnh thay đổi được cách HÀNH XỬ “BẤT
NHẪN” THỜI HẬU CHIẾN lùi xa.
Bởi, theo
khảo sát, nghiên cứu của nhiều học giả chuyên về chiến tranh Việt Nam, thì
chính những gì liên quan đến Ý thức hệ và những ảnh hưởng, tác động từ bên
ngoài mới là những nguyên nhân sâu xa, chủ đạo của cuộc chiến Đông Dương lần thứ
hai tàn khốc, khiến cho những nỗ lực chìa bàn tay giữa hai miền, giữa các thế lực
đối đầu trong nước, không thể mang lại kết quả.
Trong hình
dung của có lẽ không ít người, đã có một miền Bắc hung hãn muốn xâm lược một miền
Nam ôn hoà, mà bài viết nói trên ít nhiều có thể để ngỏ một khả năng hiểu như vậy.
Tuy nhiên, trên thực tế, điều này là hoàn toàn trái với thực tế lịch sử và pháp
lý. Về mặt pháp lý, Miền Bắc – Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) và miền Nam –
Việt Nam Cộng hoà (VNCH) không phải là hai quốc gia khác biệt, mà chỉ là hai
vùng được phân chia tạm thời dưới sự quản lý của hai chính quyền khác nhau, chờ
thống nhất, theo quy định của Hiệp định Genève năm 1954. Về mặt lịch sử, ngay
trong nội bộ chính quyền VNDCH, cũng đã không có ngay từ đầu chủ trương thống
nhất đất nước bằng bạo lực.
Một số nhà
nghiên cứu có uy tín đã làm rõ tính chất NỘI CHIẾN Ý THỨC HỆ hay CHIẾN TRANH UỶ
NHIỆM của cuộc chiến Đông dương lần thứ hai, chứ không phải một cuộc NỘI CHIẾN
tranh giành quyền lực thông thường. Ý THỨC HỆ và tính chất CHIẾN TRANH UỶ NHIỆM
đã chi phối cuộc chiến và tiếp tục chi phối CÁCH ỨNG XỬ THỜI HẬU CHIẾN (không
chỉ của một bên).
***
VAI TRÒ
TINH VI của TRUNG QUỐC trong cuộc chiến VIỆT NAM: “BÊN THẮNG CUỘC” CŨNG PHẦN
NÀO LÀ NẠN NHÂN ?
Thừa nhận
tính chất NỘI CHIẾN Ý THỨC HỆ hay CHIẾN TRANH UỶ NHIỆM hoàn toàn không mâu thuẫn
với tính chất chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, mà ngược lại có thể giúp
nhìn được sâu hơn, tinh tế hơn, đầy đủ hơn. Chỉ một vài ví dụ nhỏ có thể cho thấy
cuộc can thiệp ngoại xâm trực tiếp trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, khi
chính quyền Mỹ can thiệp lật đổ lãnh đạo nền Cộng hoà Đệ nhất của Việt Nam Cộng
hoà, hay khi Trung Quốc cưỡng chiếm Quần đảo Hoàng Sa vào lúc hai miền lún sâu
trong nội chiến. Tuy nhiên, đây chỉ là những sự kiện bề nổi.
Với độ lùi
của thời gian, và việc nhiều hồ sơ được giải mật, đã có một số khảo cứu sâu về
các chuyển biến nội bộ trong chính sách chiến tranh của giới lãnh đạo Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, cuộc đối đầu giữa hai trường phái ưu tiên xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc hoặc thúc đẩy thống nhất đất nước bằng vũ trang tại miền Nam của
sử gia Lien-Hang T. Nguyen (Hanoi’s War: An International History of the War
for Peace in Vietnam New Cold War history, xuất bản năm 2012).
Gần đây
hơn, luận án tiến sĩ của Yunyi Li, nhan đề “Une relation indécise : les
ambitions internationales franco-chinoises à l’épreuve du Vietnam 1949-1979” (bảo
vệ tại Pháp năm 2019) (2), cho thấy vai trò đặc biệt lớn của Bắc Kinh trong đường
lối của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Công trình tập trung làm sáng rõ
chính sách của Bắc Kinh đối với sáng kiến của Pháp những năm 1964-1965 về một
Đông Dương “trung lập”, Việt Nam “trung lập” (“trung lập” theo nghĩa không bị
kéo vào một trong hai khối đối đầu thời Chiến tranh Lạnh). Theo khảo cứu này, Bắc
Kinh đã sử dụng một cách tinh vi sáng kiến “trung lập” của Pháp để gây phân hoá
hàng ngũ phương Tây, tránh phải đối mặt quá sớm với một can thiệp quân sự quy
mô lớn của Mỹ tại Việt Nam, nhưng mặt khác thúc đẩy cuộc “chiến tranh cách mạng”
tại Việt Nam, để khẳng định vai trò trong khối cộng sản, trong bối cảnh Liên Xô
chủ trương hoà hoãn với phương Tây và Trung Quốc ngày càng đơn độc trên trường
quốc tế do các chính sách kích động “cách mạng” (chương IV, tr.127 – tr.174).
***
ĐIỀU GÌ
CẢN TRỞ SỰ ĐỐI THOẠI GIỮA NHỮNG LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ BẤT ĐỒNG QUAN ĐIỂM TẠI VIỆT
NAM ?
Cuối tháng
7, đầu tháng 8/ 1975,
tức chỉ 3 tháng sau khi nước Việt Nam thống nhất với chiến dịch Hồ Chí Minh đẫm
máu, tại Helsinki, thủ đô Phần Lan, 35 quốc gia hai khối, khối Đông Âu cộng sản
đứng đầu là Liên Xô và các nước phương Tây, bao gồm Mỹ, đã ký kết Hiệp định
Helsinki, mở đầu cho một kỷ nguyên
hoà giải giữa hai khối quốc gia đối địch. Hiệp định Helsinki, tôn trọng quyền tự
quyết của các dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, các quyền
tự do căn bản bao gồm quyền tự do ngôn luận, đã được coi là Kiến trúc An ninh của
châu Âu trong suốt gần nửa thế kỷ qua, cho đến cuộc xâm lược của Nga chống
Ukraine.
Đầu năm
1973, Việt Nam cũng từng có một Hiệp định Paris mở ra cơ hội thống nhất trong
hoà bình, nhưng rút cục việc thống nhất đã diễn ra bằng bạo lực. Và trong hai
năm 1964-1965, trước khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, có thể đã từng có một
cơ hội như vậy. Các thế lực cầm quyền tại Việt Nam ở hai miền đã có vai trò gì
trong việc bỏ lỡ những cơ hội thống nhất trong hoà bình như vậy? Các can thiệp
ngoại bang nào đã tác động đến quyết định của các bên? … Ắt hẳn còn phải
thêm nhiều nghiên cứu để có thể làm sáng tỏ những câu hỏi này.
Vượt qua
các giáo điều ý thức hệ, thái độ độc quyền yêu nước từ cả hai phía, là điều có
thể. Học giả Lê Xuân Khoa cách nay 20 năm
ghi nhận: “Giữa hai phe quốc gia và cộng sản ở Việt Nam không có vấn đề thiếu
hiểu biết về lịch sử và tâm lý giữa ta và địch, nhưng do nhiệm vụ chủ yếu của mỗi
bên và lòng thù ghét không đội trời chung trong suốt mấy chục năm chiến tranh,
việc đánh giá lẫn nhau hoàn toàn chủ quan và những định kiến sai lầm thường được
thổi phồng quá đáng. Nhiệm vụ chủ yếu của phe cộng sản là tấn công để thực hiện
mục tiêu thống nhất hai miền dưới ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, trong khi nhiệm vụ chủ yếu của
phe quốc gia là tự vệ để bảo toàn lãnh thổ miền Nam dưới chế độ tự do dân chủ.
Hai bên đều gán cho nhau tội phản quốc: chính phủ VNCH bị gọi là bù nhìn, tay
sai của đế quốc Mỹ, chính phủ VNDCCH bị gọi là đầy tớ của quan thầy Liên Xô và Trung Cộng. Không bên nào
nhìn nhận tinh thần yêu nước của bên kia. Do vô tình hay cố ý, người cộng sản
đã quên rằng có biết bao nhà cách mạng Việt Nam đã chết vì yêu nước trước khi
chủ nghĩa cộng sản ra đời; người quốc gia cũng quên rằng nếu người cộng sản
không yêu nước thì đã không có những mâu thuẫn Việt-Trung dẫn đến chiến tranh
giữa hai nước năm 1979” (Lời kết của cuốn “Việt Nam 1945-1995 – Chiến tranh,
Tỵ nạn
và Bài học Lịch sử” (tập 1),
xuất bản năm 2004) (3).
***
HOÀ
GIẢI, HOÀ HỢP: CÁNH CỬA MỞ VÀO “KỶ NGUYÊN MỚI” HOÀ BÌNH, AN NINH và PHÁT TRIỂN
Nửa thế kỷ
trôi qua kể từ khi cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai chấm dứt, vấn đề Hòa hợp,
hoà giải vẫn còn nhức nhối. Thách thức hoà giải, hoà hợp giờ đây không còn là
giữa các lực lượng chính trị đối kháng thời chiến tranh, hay hậu chiến, mà là
Hoà giải và hoà hợp với những người khác biệt về chính kiến.
Nhớ lại bức
ảnh “Hai người lính” của nghệ sĩ Chu Chí Thành, với hai gương mặt rực sáng tình
thân của chiến sĩ Quân Giải phóng Nguyễn Huy Tạo và quân nhân chế độ Việt Nam Cộng
hoà Bùi Trọng Nghĩa, chụp tại Quảng Trị, Xuân 1973, sau hiệp định Genève, có thể
hình dung hơn nửa thế kỷ về trước, chiến tranh Việt Nam không phải là một cuộc
NỘI CHIẾN bình thường.
ảnh
“Hai người lính” của nghệ sĩ Chu Chí Thành
Tác phẩm
“Hai người lính”, nằm trong nhóm ảnh về Hoà Hợp dân tộc không phân biệt Quốc
gia – Cộng sản, được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh của Nhà nước Việt Nam, cho thấy
về nguyên tắc không có đối kháng Ý thức hệ một mất một còn giữa những người
cùng nước vào thời điểm đó cũng như sau này. Vậy tại sao lại là một cuộc Thống
nhất bằng bạo lực, và rất nhiều hệ luỵ tiếp theo, từ Trại cải tạo, đến chính
sách triệt hạ kinh tế tư nhân, và làn sóng hàng triệu người di tản… ? (Đây là những câu hỏi không nên chỉ đặt
cho một phía).
Nửa thế kỷ
sau khi cuộc
chiến Đông Dương lần thứ hai chấm dứt, thế giới đang bước một giai đoạn nguy hiểm
mới, mà nhiều nhà quan sát so sánh với thời kỳ trước một cuộc Đại chiến thế giới.
Học giả Hoàng Xuân Hãn (4), trong một bài viết về hoà bình cho bán đảo Đông
Dương, hơn 60 năm về trước, đã cố gắng làm rõ những khó khăn chồng chất của việc
xác lập một nền hoà bình, sự hoà giải và hoà hợp ở Đông Nam Á nói chung, trên
bán đảo Đông Dương và Việt Nam nói riêng trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt giữa
các đại cường.
Hoà giải
và hoà hợp là nền tảng của độc lập dân tộc, của sức mạnh tự chủ, của hoà bình
và phát triển, của Kỷ nguyên mới. 60 năm về trước, Hoàng Xuân Hãn đã cảnh báo về
thách thức vô cùng lớn của con đường thống nhất trong hoà bình, bởi hố sâu ngăn
cách Bắc – Nam về tư tưởng. Ông viết : “… tôi vẫn âm thầm nuôi giữ một niềm hy
vọng những đồng bào miền Bắc của tôi một lần nữa tiếp xúc trở lại với thế giới
phương Tây, và một ngày nào đó có thể làm mềm đi thái độ giáo điều và cứng nhắc
cách mạng nhờ ở chủ nghĩa nhân văn Nho giáo, vốn đang bị phủ nhận, mà thực chất
rất gần gũi với lý tưởng phương Tây” (nguyên văn : “… je nourrissai le secret
espoir de voir mes compatriotes du NORD de nouveau en contact avec le monde
occidental, et amené un jour à composer la pureté et la dureté révolutionnaire
avec l’humanisme confucéen renié pour le moment, mais si proche de l’idéal
occidental”).
Hoàn cảnh
giờ đây hiển nhiên đã rất khác, nhưng nhiều đường nét cơ bản vẫn còn đó, khi
hòa bình của các xã hội phụ thuộc nhiều vào cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các
đại cường. Hoà giải và hoà hợp càng phải được coi là nền tảng cho độc lập dân tộc,
cho sức mạnh tự chủ, cho hoà bình và phát triển.
Nói về ước
mơ hoà giải, hoà hợp, không thể không nhớ đến ca khúc da diết “Mùa xuân đầu
tiên” của năm thống nhất đầu tiên, của tác giả bài Quốc ca Việt Nam hùng tráng,
bạo liệt.
“… ôi
giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi giờ
phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ đây
người biết quê người
Từ đây
người biết thương người
Từ đây
người biết yêu người…” (5)
Văn Cao
và tác phẩm Mùa xuân đầu tiên
Ca khúc từng
bị cấm biểu diễn tại Việt Nam trong hơn một thập niên sau Chiến tranh. Khi nào
“mùa xuân mơ ước” ấy thực sự đến với tất cả mọi người Việt Nam?
--------------
GHI
CHÚ
1/ Lê Học
Lãnh Vân, “Sau ngày Thương binh Liệt sĩ”, Boxitvn, ngày 28/07/2025. https://boxitvn.online/?p=94498
2/ https://theses.hal.science/tel-02527967/file/LI.pdf
3/ https://anhbasam.wordpress.com/…/viet-nam-1945-1995…/
4/ Trọng
Thành, “27/7: Thêm một dịp lòng người ly tán hay cơ hội hàn gắn vết thương
lòng, thúc đẩy đại đoàn kết?” (Trở lại với tư tưởng Hoàng Xuân Hãn để hướng đến
một nền văn hoá dân tộc đoàn kết, thống nhất, rộng mở thay vì tôn thờ chủ
nghĩa), Boxitvn, ngày 27/07/2025. https://boxitvn.online/?p=94490
5/ Kiệt
tác “MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN” của VĂN CAO dường như vẫn đợi một người ca sĩ (Hay “…
Gà đang gáy trưa bên sông…” và dòng chảy ngầm trong tác phẩm Văn Cao)
https://www.facebook.com/share/1GWkDyk94M/?mibextid=WC7FNe
T.T.
Tác giả gửi BVN