Tuesday, March 2, 2010

VÀI SUY NGHĨ VỀ HỘI NGHỊ VIỆT KIỀU 26-11-2009

Vài suy nghĩ qua Hội nghị Việt kiều 26/11/09 ở Hà nội và Nghị Quyết 36

http://www.danchimviet.com/2010/03/vai-suy-nghi-qua-h%e1%bb%99i-ngh%e1%bb%8b-vi%e1%bb%87t-ki%e1%bb%81u-261109-%e1%bb%9f-ha-n%e1%bb%99i-va-ngh%e1%bb%8b-quy%e1%ba%bft-36/

.

I – Chính sách Việt kiều sau 30-0475

Trước khi nói đến Hội nghị Việt kiều ở Hà nội ngày 26-11-2009 và chính sách đối với người Việt hải ngoại của Đảng cộng sản và Nhà nước hà nội ngày nay, chúng tôi tưởng nên nhắc lại chính sách của Hà nội đối với người Việt hải ngoại và dân Miền nam sau 30-04-75 để một lần nữa thấy rõ bản chất của chế độ .

Sau 30-04-75, đám người cầm quyền ở Hà nội không coi những người bỏ nước ra đi tỵ nạn cộng sản là nhân dân Việt nam. Chẳng phải riêng đối với những người vượt biên, mà ngay đối với nhân dân Miền nam lúc bấy giờ chấp nhận sống với chế độ, nhà cầm quyền Hà nội cũng có chính sách phân biệt đối xử, gọi dân Miền nam là “dân ngụy, bọn Mỹ ngụy ”một cách miệt thị, tìm mọi cách khủng bố tinh thần, trù dập, hành hạ để trả thù giai cấp. Chẳng may, “tiến nhanh tiến mạnh lên Chủ nghĩa xã hội” ngày càng tiến gần vực thẳm nên Đảng và Nhà nước phải hạ giọng tỏ lời vuốt ve người việt hải ngoại để chiêu dụ họ về với Đảng và Nhà nước. Ở trong nước, Hà nội thay đổi cách đối xử với dân miền nam cũ, không dùng tiếng “dân ngụy” nữa. Không dòm ngó, gây khó khăn với gia đình có người vượt biển. Sự thay đổi này bắt đầu rõ nét từ đầu thập niên 90 để Đảng tìm thế trụ lại sau biến cố Liên sô và Đông âu sụp đổ. Hà nội bèn đưa ra Nghị quyết 08 tháng 11 năm 1993 “Chính sách và công tác đối với người Việt nam ở nước ngoài”. Nghị quyết 36 ban hành 26 tháng 03 năm 2004 tiếp theo không gì khác hơn Nghị quyết kia, chỉ đổi mới cho phù hợp với tình hình mới, thêm một số chi tiết và giọng điệu êm dịu hơn, kèm theo một kinh phí khá lớn để tổ chức một mặt trận hùng hậu “Đại đoàn kết dân tộc ” nhằm chài “Việt kiều” về với Đảng và Nhà nước. Nay, Hà nội bắt đầu gọi người Việt hải ngoại là “một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc”. Chưa đủ thắm thía tình nghĩa, Đỗ Mười còn cất cao tiếng hót “những khúc ruột ở bên ngoài ngàn dặm của dân tộc”. Nhưng trước đây, sau khi chiếm được Miền nam, tập đoàn Hà nội đã không tiếc những lời thô bỉ dành cho dân Miền nam. Trong một Hội nghị tại Hà nội năm 1975, Trần Phương, Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học xã hội nói trước cán bộ ví Miền nam như một con điếm chàng hảng cho Mỹ làm tình để đổi lấy viện trợ . Còn Lê Duẩn mạt sát những người di tản: “Một bọn ma-cô, đĩ điếm”, Phạm văn Đồng: “bọn phản quốc” và báo chí thì đồng loạt hùa theo: “Những đồ rác rưởi trôi dạc khắp năm châu bốn biển, cặn bã xã hội, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sửa cặn” (1). Riêng Nguyên Bộ trưởng Y tế Nguyễn Trọng Nhân còn bộc lộ tư tưởng thù hằn theo ý hệ ta/địch đối với dân Miền nam nên tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn năm 1993 tại Amsterdam, Hòa lan: “Những người di tản đáng bị chặt đầu(2). Vì lời tuyên bố của người Đại diện nhà cầm quyền Hà nội đầy sắt máu, bị dư luận ngoại quốc phản ứng rất mạnh nên sau đó Hà nội có đính chánh, nhưng lời đính chánh đó quanh co, không đủ sức thuyết phục. Chẳng những miệt thị dân Miền nam bằng lời nói, Hà nội còn chỉ thị cho công an biên phòng, cụ thể năm 76, tại Cần giờ, hãy dùng súng cối B40 bắn thẳng vào ghe tàu vượt biên khi thấy không còn đuổi theo bắt lại được.

Hà nội ý thức rõ chiếm được Miền nam năm 75 chỉ mới thống nhứt được về mặt lãnh thổ. Hà nội chỉ muốn tranh thủ khối người Việt hải ngoại để họ phục vụ cho quyền lợi của Đảng mà thôi. Trên Tạp Chí cộng sản tháng 6/2003, Phạm Thế Duyệt, nguyên Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, nói rõ chủ trương của Đảng cộng sản về chính sách Đại đoàn kết là “Đại đoàn kết trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức (…) dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Vẫn theo Phạm Thế Duyệt, Đại đoàn kết dân tộc trở thành một nhân tố quan trọng để giúp Đảng vượt qua phong ba bão táp” và “Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân”. Đồng thời, Mai Chí Thọ, cựu Bộ trưởng Bộ Công an, trong một buổi họp nội bộ, theo báo Diễn Đàn tháng 4/2004, Paris, tuyên bố “Đại đoàn kết dân tộc” là để cho “Đảng có thể độc quyền lãnh đạo”. Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng bí thư Đảng cộng sản, trong một báo cáo chính trị trước Đại hội đảng lần IX, tháng 4/2001, giải thích về chính sách Đại đoàn kết “ Khối Đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc (…) phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng (Nhân Dân, 24/04/2001).

Thật ra, chủ trương đoàn kết toàn dân không phải là điều mới mẻ. Hà nội trước đây đã nhiều lần kêu gọi đoàn kết. Thập niên 40, để đoàn kết, Hồ Chí minh và Đảng cộng sản lập ra Mặt trận Việt minh để đoàn kết các Tổ chức chống thực dân Pháp giành độc lập đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, Mặt trận Liên Việt để đoàn kết thêm các tổ chức phi chính trị và cả cá nhân do Cụ Huỳnh Thúc Kháng, một trí thức nho sĩ không cộng sản lãnh đạo (Nhưng Cộng sản vẫn núp bên trong để kiểm soát) . Mục đích của cộng sản nhằm đoàn ngũ hóa dân chúng để độc quyền lãnh đạo kháng chiến đánh thực dân Pháp (3) . Vừa khi đình chiến, có cả triệu người Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 lánh nạn cộng sản.

Sau 30-04-75, hơn 2 triệu người từ Miền nam liều chết vượt biển tìm tự do. Điều đáng chú ý là có cả đảng viên cộng sản cao cấp cũng di tản, ly khai, bỏ đảng và quyết liệt chống lại đảng, đòi thực thi dân chủ ở Việt nam.

Như vậy quá đủ để thấy từ Hồ Chí Minh đến Nông Đức Mạnh ngày nay, chính sách Đại đoàn kết Dân tộc của Hà nội là tập họp toàn dân đặt đưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thông qua Mặt trận Tổ quốc hiện nay. Với cộng sản, không bao giờ có Đại đoàn kết thật sự nhằm thực hiện hòa giải dân tộc, mọi người dân được tự do, bình đẳng trên cơ sở sự đồng thuận chung theo chế độ dân chủ tự do để phát huy sức mạnh dân tộc (4). Về điểm này, ông Nguyễn Hộ, một đảng viên lão thành từ thời kháng chiến chống Pháp, cũng nhấn mạnh rằng “đoàn kết phải được kết hợp với hòa giải dân tộc”. Và cả hai nhiệm vụ đó phải “dựa trên cơ sở dân chủ thật sự và bình đẳng”.

.

II- Hội nghị Việt kiều

Gọi đúng tên là Hội nghị Người Việt ở nước ngoài tổ chức lần đầu tiên tại Hà nội, từ ngày 20-22 tháng 11 năm 2009. Hội nghị này là một bước mới quan trọng trong quá trình thi hành Nghị Quyết 36 tập hợp người Việt ở nước ngoài trên toàn thế giới .

Sau 5 năm ban hành Nghị Quết 36 (tháng 3/2004), Hà nội kiểm điểm thành quả của chính sách chiêu dụ Việt kiều, từ những vụ nổi cợm như vụ nguyễn Cao Kỳ, Phó Tổng thống của Chánh quyền Miền nam cũ, vụ Nhạc sĩ lớn Phạm Duy của nghệ sĩ hải ngoại, vụ Thiền sư Nhất Hạnh, một lãnh tụ bề thế của một hệ phái Phật giáo hải ngoại, vụ Trại Hè Việt nam từ 17-07 đến 05-08-2009 qui tụ thanh thiếu niên trên 11 Tỉnh thành từ Bắc vào Nam, vụ Đại Hội thành lập Hiệp Hội Doanh nhân Việt nam ở nước ngoài từ 09 đến 10 tháng 08-2009 tại Hà nội, đến Hội Nghị Việt kiều San Francisco, từ ngày 08-09-2009, vinh danh một số Việt kiều về Việt nam làm ăn từ ít lâu nay là “tiên tiến”, …nhận thấy tât cả đều không có gì đáng lấy làm phấn khởi cho lắm. Đó là lý do đã thúc đẩy Hà nội quyết định tổ chức thêm Hội Nghị người Việt ở nước ngoài vào tháng 11 năm 2009 tại Hà nội (5).

.

1/ Chuẩn bị tư tưởng

.

a – Vai trò quan trọng của Cộng đồng người Việt hải ngoại

Vì tầm vóc quan trọng của Hội nghị qui tụ người Việt hải ngoại trên qui mô toàn thế giới, Ts Dương văn Lượng (6), thuộc Viện Khoa Học Xã hội Nhân văn Quân sự Bộ Quốc phòng Hà nội, trên Tạp Chí cộng sản (điện tử, tháng 8-2009), chủ trương kêu gọi tăng cường vận động người Việt nam ở nước ngoài “tham gia xây dựng đất nước trong thời kỳ mới và làm cầu nối cho mối quan hệ giữa các nước sở tại với Việt nam”. Ông nhận định và đánh giá cao Cộng đồng người Việt hải ngoại. Hiện nay, theo nhiều nguồn tin, có gần 4 triệu người Việt nam đang sinh sống ở 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong số đó có hơn 80 % sinh sống ở các nước phát triển. Đại bộ phận người Việt ở nước ngoài tới nay đều có đời sống ổn định và hòa nhập vào xã hội nơi cư trú. Thế hệ 2 có nhiều người đã bắt đầu tham gia vào chính trường của nước sở tại từ chức vụ Dân cử địa phương, Dân cử liên bang tới chức vụ quan trọng của Hành pháp như Thứ trưởng và Bộ trưởng .

Về chất xám, trong Cộng đồng người Việt hải ngoại có nhiều trí thức trình độ học vấn và chuyên môn cao. Một số người giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan nghiên cứu khoa học, xí nghiệp lớn, tổ chức quốc tế như Ngân Hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, …Theo ước tính, Cộng đồng người Việt hải ngoại hiện nay có tới 400 ngàn người có trình độ Đại học và trên Đại học. Họ được đào tạo trong môi trường khoa học tân tiến, nhân bản, có nhiều kinh nghiệm trong nghiệp vụ khoa học, quản lý kinh tế, kinh doanh và hành chánh cao cấp. Họ còn có mối quan hệ rộng rãi với các cơ sở khoa học, kinh tế ở nước sở tại và trên trường quốc tế .

Trước sức hấp dẫn của Cộng đồng người Việt hải ngoại, ông Dương văn Lượng bày tỏ ngay chủ trương của Nhà nước và Đảng cộng sản là kêu gọi người Việt hải ngoại hãy giữ “vai trò cầu nối để Nhà nước Hà nội mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực trên thế giới vì Cộng đồng người Việt hải ngoại là nhân tố quan trọng trong việc thực hiện đường lối ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa của đảng và Nhà nước”.

Nỗ lực của ông Dương văn Lượng vận động người Việt hải ngoại với những lời đường mật về hợp tác với Nhà nước xây dựng đất nước, nhưng người Việt hải ngoại thừa hiểu trong thực tế Đảng cộng sản chỉ muốn móc túi và chắt óc người Việt hải ngoại cho mục tiêu duy nhứt là phục vụ quyền lợi của phe nhóm hiện đang cầm quyền mà thôi. Vai trò cầu nối của người Việt hải ngoại trong việc thực hiện ngoại giao cho thấy Hà nội vừa thiếu khả năng ngoại giao, vừa tự làm mất lòng tin với các quốc gia bạn vì bản chất lật lộng mà Chánh quyền không bao giờ biết tôn trọng những điều đã cam kết như các Hiệp ước, Công ước quốc tế. Thật ra “cầu nối” ở đây còn có nghĩa là nhờ người Việt hải ngoại với những quan hệ quan trọng của họ trong kỹ thương, chính trường, mời mọc người ngoại quốc tới Việt nam đầu tư hoặc đem lại cho Việt nam những chương trình viện trợ béo bở. Điều này, chánh quyền ít làm được hoặc thường gặp nhiều khó khăn vì tai tiếng tham nhũng làm nản lòng các quốc gia có thiện chí.

.

b – Nỗ lực thi hành NQ 36

Về mặt tuyên truyền ngoại vận, ông Dương văn Lượng thấy ngay Cộng đồng người Việt hải ngoại có nhiều lợi thế để quảng bá hình ảnh đất nước Việt nam với thế giới.

Đúng như ông Dương văn Lượng thấy là người Việt hải ngoại có nhiều lợi thế để quảng bá hình ảnh Việt nam ra nước ngoài. Và họ đang làm rất tích cực. Họ tố cáo đảng cộng sản dùng công an và quân đội đàn áp dân chúng biểu tình chống nhà cầm quyền cướp đoạt tài sản của họ, đàn áp thanh niên, sinh viên biểu tình chống Tàu xâm phạm lãnh thổ và biển, tố cáo Đảng dùng Tòa án và Công an đàn áp những người yêu nước chân chánh đòi thực thi dân chủ bằng những bản án tù. Cụ thể, không kể 13 bản án trước năm 2009, những phiên Tòa từ cuối năm 2009 và đầu năm nay xử 17 nhà dân chủ trẻ lảnh 80 năm tù và hơn 50 năm quản chế. Ngoài hình ảnh hoen ố thường xuyên vế nhân quyền, Hà nội còn nổi bật những vụ tham nhũng cấp Nhà nước liên hệ trực tiếp với nước ngoài như vụ PMU 18, vụ PCI với Nhựt bổn, …Còn “diễn biến hòa bình” mà ông Lượng đề cập tới là hiện tượng đáng vui mừng vì đông đảo đảng viên phản tỉnh về sự lương thiện, về địa vị con người, về quyền lợi đất nước, đến nay đã trở thành trầm trọng đến nỗi Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng và Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Khoa giáo Trung Ương, đã phải than vãn rằng có nhiều đảng viên cao cấp “nhạt lý tưởng, nhạt niềm tin” (7) không còn sốt sắng làm nhiệm vụ. Những người bị ông Dương văn Lượng gọi là “thế lực thù địch bạo loạn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa” là những người đòi hỏi thực thi dân chủ ở Việt nam một cách ôn hòa. Nếu họ có đòi hỏi bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa thì cũng công bằng, hợp lý bởi vì chế độ xã hội chủ nghĩa, chẳng những là một bế tắc cho phát triển đất nước, theo đuổi chánh sách độc tài toàn trị thường xuyên đàn áp nhân dân, vô cảm trước những đau đớn của nhân dân, chấp nhận lệ thuộc Tàu vì quyền lợi phe cánh cầm quyền, mà quan trọng hơn hết đó là một chế độ hoàn toàn không do nhân dân chọn lựa. Một chế độ không chính thống nên không được lòng dân, mà người cầm quyền cũng khinh dân. Ông Dương văn Lượng chủ quan nghĩ rằng chính sách đối ngoại mở rộng cùng với đường lối, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng và Nhà nước mà trực tiếp là Nghị Quyết 36/NQ-TW, ngày 26-03-2004, của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt nam ở nước ngoài chính là những động lực để Cộng đồng người Việt nam ở nưóc ngoài ngày nay có xu hướng gắn bó hơn với quê hương, đất nước.

Thật tình thì không có người Việt nam nào quên đất nước. Họ còn giữ khoảng cách với đất nước của họ chỉ vì họ không chấp nhận cái chế độ cộng sản đang cai trị đất nước của họ mà thôi. Chẳng những không quên đất nước, họ còn xác nhận Việt nam vẫn là đất nước của họ, chớ không phải riêng của Đảng cộng sản. Chánh quyền cộng sản cai trị Việt nam ngày nay không do nhân dân chọn lựa, trái lại đó chỉ là một thứ ngụy quyền dùng bạo lực và dối trá để cai trị (8). Ông Dương văn Lượng biết rõ như vậy nên trong suốt bản báo cáo, ông luôn luôn nói “đất nước, quê hương, tổ quốc” mà hoàn toàn không thêm tĩnh từ “xã hội chủ nghĩa” theo sau những danh từ ấy như trước đây hoặc như khi phát biểu ở trong nước. Đừng quên cộng sản vì chủ trương dối gạt nên luôn luôn có hai cái lưỡi : họ nói chuyện với những người trong nội bộ hoặc với dân chúng trong nước khác hơn với những người Việt nam ở nước ngoài.

.

c – Từ Ủy Ban nâng lên Tổng Cục

Đảng cộng sản hiện nay phát động giai đoạn mới trong công tác nỗ lực thực hiện Nghị Quyết 36. Đảng chỉ thị các “cấp Ủy, Chính quyền, đoàn thể thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm của đảng, Nhà nước coi người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt nam”.

Ông Dương văn Lượng trấn an người Việt hải ngoại rằng nhận thức của toàn đảng, toàn dân là “Tổ quốc Việt nam (nói chung, không thêm tĩnh từ xã hội chủ nghĩa) luôn chờ đợi và mở rộng vòng tay đón những người con xa xứ trở về, sẵn lòng tha thứ những ai đó một lần lầm lỡ, miễn sao họ luôn luôn thành tâm với quê hương, đất nước ….”

Nghe ông Duong văn Lượng nói “Nhà nước và Đảng sẵn sàng tha thứ những ai đó đã một lần lầm lỡ, … ”, chúng tôi nghĩ phải chăng ông Dương văn Lượng đang mắc bịnh tâm thần trầm trọng nên mới chủ trương tha thứ những người Việt hải ngoại đã “một lần lầm lỡ”? Người phải tạ tội và sám hối trước nhân dân để được nhân dân khoan hồng, tha cho tội chống nhân loại, tội làm mất đất, mất biển cho Tàu, tội tịch thu và cướp đất đai, ruộng vườn của nhân dân, tội đàn áp nhân dân lương thiện bằng Tòa án và Công an, chính là Đảng cộng sản Hà nội. Người mà ông gọi là một lần lầm lỡ, phải chăng đó là những người lính Miền nam? Nếu phải thì người lính Miền nam chỉ bắn giết người cộng sản trong lúc đánh nhau trong cuộc chiến xâm lược xảy ra trên lãnh thổ Miền nam. Tuyệt nhiên, lính Miền nam không đấu tố, chém giết đồng bào vô tội bằng đấu tranh giai cấp. Chính quyền Miền nam không bắt bớ, tra tấn, trù dập có hệ thống người dân phát biểu chính kiến của mình một cách ôn hòa vì ở Miền nam trước 75 có báo chí tư nhân, có nhiều hội, đoàn thể chính trị hoạt động công khai hợp pháp theo qui chế Hiệp hội và Chính đảng. Quyền tư hữu được luật pháp bảo vệ nên không có nạn bạo hành, cướp nhà, cướp đất của dân như đang xảy ra ở Việt nam sau 1975 mà đảng viên cộng sản là thủ phạm. Chúng tôi nhắc lại để ông Dương văn Lượng nhớ rõ Đảng cộng sản của ông vẫn là hiện thân tội ác đối với dân tộc Việt nam cần được nhân dân khoan hồng khi Đảng cộng sản biết thành tâm sám hối .

Đảng cộng sản Hà nội vì cùng ý thức hệ cộng sản nên tự nguyện làm theo Bắc kinh như, trong cuộc “cách mạng dân chủ”, đã tiến hành Cải Cách Ruộng Đất ở Miền Bắc từ năm 52-56 giết hại hơn 500.000 nông dân và cả đảng viên vô tội, trong đó giết tại hiện trường 172.008 người. Trong số này, ngày nay, nhà cầm quyền hà nội thừa nhận có 123 266 (71,6 %) là vô tội, đảng viên chiếm 40% (9) . Trong Vụ nhân văn giai phẩm, những trí thức và văn nghệ sĩ ưu tú như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Hoán, … bị hành hạ, trù dập cho đến ngày tàn, …Đỗ Mười rặp khuôn theo Tàu cải tạo công thương nghiệp, giết hại bao nhiêu tiểu thương tiểu chủ miền bắc ? Họ là những người làm ăn suốt đời đổ mồ hôi nước mắt tạo dựng nên sự nghiệp gia đình một hôm bị cướp sạch trắng tay, bản thân còn bị trù dập thảm hại, đi đến tự tử .

Sau 30-04-75, trong Miền Nam, Đảng cộng sản một lần nữa đánh tư sản mại bản, tiếp theo đánh tư sản dân tộc tơi bời, những người trước đây từng nhiệt tình ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Mặt Trận Giải phóng Miền nam, và đuổi người dân đi kinh tế mới, cướp sạch sự nghiệp của họ. Trước những hành động đẫm máu này đối với nhân dân, Đảng cộng sản đã tự thừa nhận sai lầm. Điều mĩa mai là những nhà lãnh đạo đã từng chủ trương đánh tơi bời giai cấp tư sản trước đây, phá hủy sức sản xuất của xã hội trên cả nước trong mấy năm liền, thì ngày nay do tham nhũng vô bờ bến, cướp của công và trấn lột nhân dân trở thành những nhà tư bản đỏ giàu sụ, thậm chí có người trở thành tỷ phú đô-la. Những người này đáng đền tội trước Tòa Án nhân dân. Xử tội xong những tên ác ôn này, Đảng cộng sản và Nhà nước còn phải thành tâm tạ tội và sám hối trước nhân dân. Tại sao ông Dương văn Lượng không đề cập đến những trường hợp này?

Chúng tôi nghĩ ông Lượng “tăng cường công tác thông tin đối ngoại để tuyên truyền, vận động cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài, tăng cường đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt nam ở nước ngoài như đài phát thanh, TV, báo chí, Internet, …đổi mới nội dung, hình thức và kỹ thuật của các chương trình này cho phù hợp với nhận thức, tâm lý, tình cảm, hoàn cảnh của bà con đang sinh sống ở nước ngoài” cũng chỉ vô ích thôi vì người Việt nam ở nước ngoài hiểu rõ hay đã từng thể nghiệm bằng máu và nước mắt lời kêu gọi đoàn kết của cộng sản từ 1945 . Vẫn thấy chưa đủ, ông còn thúc đẩy phải nghiên cứu vận dụng nhiều hình thức thích hợp hơn những lời giải thích chính sách theo NQ 36 để tuyên truyền, vận động người Việt nam ở nước ngoài “thông qua tổ chức các cuộc giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triển lãm tranh ảnh về đất nước , …các hoạt động từ thiện, du lịch, sinh hoạt khoa học, và sinh hoạt các nhóm ngay trong cộng đồng người Việt nam hải ngoại”.

Người Việt nam ở nước ngoài nếu thật sự là một bộ phận dân tộc không thể tách rời, thì tại sao Đảng cộng sản và Nhà nước không cho họ cùng làm những công tác như ông đã nêu ra trên đây: cho họ đem về Việt nam sách báo, phim ảnh để giao lưu văn hóa, văn nghệ, cho họ tổ chức những buổi hội thảo về tình hình đất nước trước hiểm họa mất nước cho Tàu, cho họ nói chuyện về kinh tế thị trường, về dân chủ, về đa đảng, về những quyền tự do căn bản của nhân dân theo tinh thần phổ cập của LHQ. Nếu nhân dân trong nước không thích, không hưởng ứng, tẩy chay vì đó là những thứ văn hóa “đồi trụy”, thì họ tự nhiên dẹp bỏ, không làm nữa .

Tại sao đối với người Việt nam ở nước ngoài, ông Lượng vẫn muốn họ chỉ biết tiếp thu những gì ông đem tới, mà không hề muốn trao đổi, có qua có lại? Đảng cộng sản đã đến Việt nam không như những dòng tư tưởng khác, dân chúng không có quyển chọn lựa, mà phải cam tâm chấp nhận để sống còn. Đảng cộng sản cầm quyền cũng không do dân chúng ủy nhiệm. Vì mất quyền căn bản đó, một bộ phận dân tộc đã bỏ nước ra đi để tìm lại cho mình, gia đình một đời sống tự do. Nay họ không thể dễ dàng cuối đầu chấp nhận sự tuân phục vô điều kiện với cái Đảng cộng sản và Nhà nước đã liên tục gây đầy dẫy tội ác với đồng bào của họ được .

Người Việt hải ngoại, chúng ta đừng coi thường chính sách tuyên truyền, vận động người Việt nam hải ngoại của Ủy Ban về người Việt nam ở nước ngoài. Hiện nay, Ủy Ban này đã được nâng lên thành Tổng Cục thuộc Bộ Ngoại giao theo chỉ thị số 19/2008/CT – TTg do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 08-06-2008 (10) để “ phát huy vai trò chuyên trách, phối hợp với các Bộ Văn Hóa, BộThông tin, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức xã hội trong cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài ” chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là chinh phục trọn vẹn cộng đồng người Việt nam hải ngoại về với Đảng và Nhà nước, để chỉ phục vụ riêng cho quyền lợi của đảng cộng sản .

Ông Dương văn Lượng thiết tha ve vảng để chiêu dụ người Việt nam ở nước ngoài hãy mang tiền của, sự hiểu biết về Việt nam đầu tư, giúp nước, nhưng thực ra là để giúp phe cánh cầm quyền thêm vững mạnh lâu dài, nhưng đồng thời ông cũng không quên đề cao “cảnh giác, ngăn ngừa kẻ địch kích động gây chia rẽ, chống phá Việt nam”, phát huy các “lực lượng tiến bộ, yêu nước trong Cộng đồng người việt nam ở nước ngoài” để “ngăn ngừa và làm giảm bớt mức độ nguy hiểm của các âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt nam từ nước ngoài hướng về Việt nam”.

Khi ông Dương văn Lượng nêu lên vấn đề về những “kẻ gây chia rẽ”, thì ông có hiểu chính ông mới là người gây chia rẽ khối người Việt nam ở nước ngoài nhằm làm giảm bớt sự chống đối chế độ Hà nội? Ai “chống phá Việt nam”? Những người Việt nam thật sự yêu nước đều muốn đóng góp ý kiến và của cải để xây dựng đất nước, để đất nước đừng quá tụt hậu so với các nước láng giềng trong lãnh vực kinh tế, chánh trị, xã hội, giáo dục, y tế, …Thì tại sao ông Lượng lại bảo họ là những người chống phá Việt nam? Ngoài ra ông Lượng còn cho rằng những người hưởng ứng chánh sách của chế độ Hà nội là “lực lượng tiến bộ”. Nhưng thật ra những người này chỉ là những người thiếu suy nghĩ, đi ngược lại trào lưu dân chủ, tự do của thế giới ngày nay, đó chính là những người phản động .

.

2/ Kết quả Hội nghị

Ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Ngoại giao, chủ nhiệm Ủy Ban Nhà nước về Người Việt nam ở nước ngoài, Trưởng Ban tổ chức Hội nghị (11), đọc báo cáo tổng kết 2 ngày hội nghị (tháng 11/2009) . Bản báo cáo của ông tập trung vào 4 điểm, kết quả của 4 Ban làm việc chuyên đề: xây dựng Cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài, giữ gìn và phát huy bản sắc và văn hóa truyền thống dân tộc, vai trò của chuyên gia, trí thức và doanh nhân góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước, tổng hợp kiến nghị của 4 Ban chuyên đề.

.

a – Đoàn kết và hòa hợp với Đảng

Qua bản báo cáo của ông Nguyễn Thanh Sơn, Hội nghị chỉ nhằm kêu gọi “người Việt nam hải ngoại tại nơi định cư hãy giữ sự quan hệ chặt chẽ với các tổ chức của Ủy Ban Nhà nước về người Việt nam ở nước ngoài, đem khả năng và tiền bạc về xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản”. Tức ý muốn nói tất cả người Việt nam ở nước ngoài ngày nay đều được Đảng và Nhà nước cộng sản Hà nội xem chung là người dân của mình hết cả. Như người dân hiện sống trong nước. Người đọc tuyệt nhiên không thấy trong 900 người tham dự Hội nghị có ai tỏ ra thắc mắc, ưu tư về tình trạng đất đai và hải phận bị mất vào tay giặc Tàu, về những trường hợp Đảng và Nhà nước bắt bớ, trù dập những người lên tiếng phản đối giặc Tàu xăm lược như Cô Phạm Thanh Nghiên bị Tòa án Hải phòng xử 4 năm tù ở, 3 năm quản chế chỉ vì cô để trong nhà tấm bảng ghi câu “ Hoàng Sa và Trường Sa là của tôi ”, về thân phận những nhà báo đang bị tù tội, mất việc làm vì đã viết phơi bày ít nhiều sự thật của chế độ tham những, những người yêu nước đòi hỏi dân chủ và nhân quyền ôn hòa, hoàn toàn không bạo động, bi bắt giam và ra Tòa lãnh án từ 5 năm đến 16 năm tù ở và từ 3 đến 5 năm quản chế (Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định, Lê Thăng Long, Trần Anh Kim, Trần Khải Thanh Thủy, …), những người dân bị mất nhà cửa, ruộng vườn vì đại họa đảng viên cường hào ác bá cướp giựt, …

Bản báo cáo của ông Nguyễn Thanh Sơn chỉ lập lại cụ thể hơn, hay triển khai những chỉ thị của ông Dương văn Lượng trong báo cáo trước đây. Hoàn toàn không có gì mới đáng quan tâm hơn.

Nhận xét về ngôn ngữ, cả hai ông Dưong văn Lượng và Nguyễn Thanh Sơn đều nói bằng lưỡi gỗ “Made in China. Khi nói về đất nước, yêu nước, Tổ quốc, …hai người đều né tránh tĩnh từ “xã hội chủ nghĩa” khác hẳn các báo cáo trước dân chúng trong nước hay trong nội bộ. Hai người đều kêu gọi “người Việt hải ngoại thực hiện chủ trương hòa hợp, đại đoàn kết dân tộc của đảng và Nhà nước, với các chánh sách mở rộng, xóa bỏ hận thù, khép lại quá khứ ….”. Dương văn Lượng và Nguyễn Thanh Sơn đều kêu gọi người Việt hải ngoại “hòa hợp”, tức về với Đảng cộng sản, chấp nhận theo chủ trương của Đảng, mà không hề nói “hòa giải dân tộc” trong những tranh chấp do hoàn cảnh lịch sử tạo nên ngoài quyền lợi chánh đáng của dân tộc .“ Đại đoàn kết dân tộc ”của hai ông Dương văn Lượng và Nguyễn Thanh Sơn không gì khác hơn là đại đoàn kết dưới trướng của Đảng cộng sản. Bởi Nhà nước là đảng. Cũng như vua Louis XIV của Pháp đã nói “Nhà nước là Ta”. Đảng cộng sản luôn luôn mang nặng mặc cảm tự tôn cho mình đứng trên dân tộc, nắm được chơn lý lịch sử. Thái độ trịch thượng này, liệu có đảng viên lương thiện nào có thể chấp nhận được không?

.

b - Mở rộng mạng lưới tuyên truyền ra hải ngoại

Ông Nguyễn Thanh Sơn đặc trọng tâm trong công tác thông tin dành riêng cho Cộng đồng người Việt hải ngoại như TV, báo in, báo điện tử của Đảng, Chánh phủ, mặt Trận Tổ quốc, …phải “cung cấp những thông tin chính xác và cập nhật cho kiều bào về mọi mặt của tình hình đất nước”.

Vậy ông Nguyễn Thanh Sơn hãy phổ biến rộng rãi cho Cộng đồng người Việt hải ngoại biết rõ ở Việt nam ngày nay, Chánh quyền còn giam giữ bao nhiêu tù chánh trị ? Hãy công bố hồ sơ đất đai, lãnh hải, bị Tàu cưởng chiếm và thái độ xử lý của đảng và Nhà nước Hà nội trong các vụ này, hợp đồng khai thác khoáng sản bô-xít với Tàu, nêu lên chi tiết cách sử dụng ngân sách quốc gia, tài sản riêng của đảng cộng sản và cách thủ đắc như thế nào? Tại sao Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhứt lại không có quyền biết đến tài sản của đảng? Đây là những thông tin rất bình thường về tình hình đất nước mà dân chúng ở bất kỳ một nước dân chủ nào cũng có quyền biết. Nay Cộng đồng người Việt hải ngoại quan tâm lên tiếng đòi hỏi quyền được thông tin và quyền được biết sự thật về tình hình đất nước theo tập quán dân chủ của nước sở tại nơi họ đang sanh sống. Ít nhứt, về các điều cụ thể trên đây .

Trong lúc đảng vẫn bưng bít kín sự thật, nhờ mạng lưới thông tin ngày nay, Cộng đồng người Việt hải ngoại đã biết được ít nhiều sự thật về các hồ sơ đen ấy nên đã tố cáo Đảng và Nhà nước thoả hiệp với Tàu nhượng đất và biển cho Tàu để đổi lấy chế độ được tồn tại lâu dài, có điều kiện tiếp tục vơ vét thêm nhiều tiền của của nhân dân nữa. Hiện tại, đảng ủy của 10 Tỉnh (Lạng sơn, Quảng ninh, Cao bằng, Nghệ an, Hà tỉnh, Quảng nam, Bình định, Kontum, Bình dương) ký kết với các xí nghiệp Tàu Bắc kinh, Đài-loan và Đại-hàn hợp đồng cho thuê dài hạn 50 năm có tái cứu xét 264.000 mẫu đất rừng khai thác kinh doanh. Các xí nghiệp ngoại quốc đang ồ ạt phá rừng, lấy gỗ, chiếm mặt bằng. Giai đoạn kế tiếp xây dựng khu cư xá, làng mạc cho công nhân người Tàu, Đại hàn do xí nghiệp đem tới. Cách làm ăn này của Đảng cộng sản là phá hủy đất nước về các mặt chiến lược môi trường, kinh tế xã hội. Một thứ tội bán “sôn” (bán đại hạ giá) đất nước của Đảng cộng sản. Đó là nói lên sự thật chủ trương của Đảng và Nhà nước, chớ không phải bóp méo sự thật như ông Sơn nói. Trong chiến tranh vừa qua, Đảng và Nhà nước cộng sản Hà nội tuyên truyền cho rằng Chính quyền Sài gòn là “Mỹ Ngụy”, không có tính chính thống, tức một Chính quyền không phải của nhân dân. Nhưng Chính quyền Miền nam cho đến ngày 30-04-1975 chưa làm mất một tất đất vào tay giặc. Trái lại, ngày 19-01-1974, Hải quân Miền nam anh dũng chiến đấu với quân tàu xâm lược để bảo vệ Hoàng Sa, trong lúc đó đảng và Chính quyền Hà nội phổ biến trong nội bộ thà để cho Trung quốc, một người anh em của phe xã hội chủ nghĩa, chiếm giữ Hoàng Sa còn hơn là để cho “ngụy quyền” Miền nam. Qua phản ứng đó, Hà nội đã bộc lộ rõ một Chính quyền không tôn trọng chủ quyền quốc gia, trái lại còn đề cao tinh thần lệ thuộc Tàu. Chúng ta từ đây phải gọi Chính quyền ở Hà nội là Hán Ngụy (12) để làm bộc lộ bản chất bán nước của Đảng cộng sản.

.

c – Tăng cường mạng lưới công an làm Thầy chùa ra hải ngoại

Về nhu cầu sinh hoạt tâm linh, ông Nguyễn Thanh Sơn lấy làm tiếc “trong nước chưa hỗ trợ được nhiều. Các phần tử phản động lợi dụng tình hình này đang tìm cách lôi kéo bà con vào các hoạt động tâm linh không lành mạnh hoặc đi ngược lại lợi ích của Cộng đồng, đất nước và dân tộc”. Phải chăng để tăng cường sự hỗ trợ mà ngày 16/07/2009, tại trụ sở Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt nam, Ủy Ban Nhà nước về người Việt nam ở nước ngoài với ông Nguyễn Thanh Sơn, và Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt nam, với Hoà thượng Thích Thanh Tứ, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt nam, đã cùng nhau ký kết một Chương trình phối hợp công tác nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp Giáo Hội thực hiện công tác phật sự đối với người Việt nam ở nước ngoài, mở rộng quan hệ, hoạt động của Giáo Hội sang các nước có đông kiều bào sanh sống, tham gia vào các hoạt động vận động người Việt nam ở nước ngoài do Ủy Ban, tức Ủy Ban về người Việt nam ở nước ngoài, chủ trì . Ông Nguyễn Thanh Sơn vui mừng vì đây là lần đầu tiên Nhà nước ký kết với Giáo Hội một chương trình hoạt động chung nhằm vào người Việt nam ở nước ngoài (13).

Chúng ta phải hiểu ngày nay Hà nội nỗ lực mở rông và nâng cao việc thực thi NQ 36 mà thực chất của chương trình hoạt động chung này không gì khác hơn là đưa đông đảo công an ra hải ngoại làm Thầy chùa, để vừa đánh phá uy tín Phật giáo, phá nát lòng tín ngưỡng chân chính của Phật tử hải ngoại gốc tỵ nạn cộng sản, làm tình báo và mượn danh nghĩa đạo kinh tài cho đảng .

Trong lời tuyên bố của Giáo Hội và của Ủy Ban Nhà nước hoàn toàn không thấy có chủ trương hoằng pháp, quan tâm tới đạo pháp, mà chỉ nhằm, qua ảnh hưởng tôn giáo, vận động người Việt hải ngoại theo NQ 36 đoàn kết dưới sự lãnh đạo của đảng. Chánh sách muôn đời của cộng sản, khi tiêu diệt tôn giáo không được thì tha làm phước, nhưng phải biến tôn giáo làm công cụ phục vụ cho quyền lợi của đảng .

Ông Sơn nói “trong nưóc chưa hỗ trợ được nhiều”, tức chưa gởi ra hải ngoại đủ số công an làm Thầy chùa để quản lý hệ thống chùa chiền ở hải ngoại như đảng đang quản lý hệ thống chùa chiền ở Việt nam?

Chúng tôi quả quyết ở hải ngoại không có những phần tử phản động, chỉ có những người tố cáo đảng và Nhà nước đàn áp quyền tự do tín ngưỡng ở Việt nam. Đó là việc làm chánh đáng để bảo vệ những giá trị văn hóa dân tộc và những quyền bất khả nhượng. Xâm phạm tới những quyền này mới đi ngược lại lợi ích của Cộng đồng, đất nước và dân tộc như Đảng cộng sản chủ trương trong chánh sách về tôn giáo của Đảng. Nhân đây, vì ông Sơn đặc biệt quan tâm đến tầm quan trọng của Phật giáo trong Cộng đồng người việt hải ngoại, ông Sơn hãy cho chúng tôi biết trong chánh sách về tôn giáo hải ngoại, Đảng và Nhà nước của ông đã đào tạo được bao nhiêu công an làm Thầy chùa và bố trí trụ trì bao nhiêu chùa ở hải ngoại? Đây là những Thầy chùa công an có nhiệm vụ làm suy đồi Phật pháp, làm nản lòng Phật tử chơn chánh, làm tan nác hệ thống chùa chiền xây dựng được từ sau những ngày đầu tỵ nạn, để trong những ngày tới, chỉ còn lại những chùa chiền theo hệ thống công an của đảng và Nhà nước mà thôi. Vì những chùa chiền này và thầy chùa đều chỉ biết phục vụ đúng quyền lợi của đảng và Nhà nước.

.

d – Đảng kinh tài bằng xuất khu lao động

Ông Sơn nhìn nhận “công tác quản lý xuất khẩu lao động còn một số yếu kém”. Ông Sơn nên nói rõ hơn cho đúng sự thật là Chính sách “Xóa đói giảm nghèo” và “Đề Án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động” với hệ thống Ngân Hàng Chính sách Nhà nước yểm trợ, trực tiếp làm hợp đồng cho vay có thế chấp bất động sản, giới thiệu người để hướng dẫn người đi lao động nước ngoài đi qua Anh làm việc, lương tháng 5.000 USD, trong 4 tháng đủ trả nợ ngân hàng. Nhưng trên thực tế là qua Anh trồng cần sa và lương chỉ có 350 bản anh/tháng. Người đi lao động, với số lương ấy, không đủ sống một mình tại Anh. Chỉ vài tháng sau, vì không trả được nợ cho Ngân Hàng thuộc Chính sách xóa đói giảm nghèo, tài sản thế chấp của họ bị tịch thâu và phát mãi mà họ không còn được một đồng xu. Khi bị tai nạn chết, Sứ quán không thèm ngó ngàn tới công dân của mình. Hiện tại, đảng và Nhà nước không chấp nhận hồi hương những người đi qua Anh lao động theo hợp đồng với Ngân Hàng Chính sách Nhà nước vì đảng bảo đây là những người đi lao động bất hợp pháp (14).

Ông Dương văn Lương, Viện Khoa học nhân văn Quân sự Bộ Quốc phòng và ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Ngoại giao nước Công Hòa Xã Hội chủ nghĩa Hà nội, nhìn nhận đây là “một số yếu kém” hay là sự lật lộng của ảng và Nhà nước nhằm chủ yếu cướp đoạt tài sản cuối cùng của dân nghèo Miền Trung ở các tỉnh Thanh Nghệ Tịnh qua trung gian bất chánh của các Ngân Hàng Chính sách và những tổ chức môi giới? Chế độ Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa ở Việt nam là độc tài toàn trị thì không thể nói là không biết những hành động tội ác này được .

Hiện tại, ở trong rừng Tétéghem và Grande Synthe thuộc thành phố cảng Calais miền Bắc nước Pháp, cách Paris chừng 300 km, còn hơn 200 người tuổi từ 17 đến 45 đang sống trong cơ hàn chờ mà chưa biết bao giờ sẽ tới phiên mình được đưa qua Anh lao động, tức trồng cần sa. Họ đã vay Ngân hàng Chánh sách Nhà nước có thế chấp tài sản số tiền từ 15. 000 USD để chi trả cho Tổ chức tuyển người đưa đi lao động ở Anh. Người hướng dẫn họ trên đường đi và quản lý họ tại nơi tạm trú trong rừng là công an (15). Hai ông có trách nhiệm làm sáng tỏ việc này, thật lòng bảo vệ quyền sống cho người dân trong nước tốt hơn là lo o bế chiêu dụ người Việt hải ngoại trong lúc này. Hai ông hãy chỉ thị viên Đại sứ hà nội tại Paris tới Calais điều tra tình trạng thảm hại này để sớm cứu vớt những nạn nhân của chế độ xã hội chủ nghĩa của hai ông.

.

e – Giữ gìn và phát huy truyền thng tốt đẹp …

Ông Sơn cho biết “Đảng và Nhà nước đang hỗ trợ người Việt nam ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc và truyền thông tốt đẹp dân tộc, phẩm giá của con người Việt nam, …”. Khi nói điều này, ông Nguyễn Thanh Sơn nên xem lại người Việt nam ở nước ngoài có ai một lần vi phạm tội vào siêu thị ăn cắp có hệ thống, chở hàng ăn cắp về Việt nam buôn bán như các vụ ở Nhựt, Đức, Úc mà thủ phạm là nhân viên Hàng không do dảng và Nhà nước gởi đi công tác? Vụ Thứ trưởng thua đánh cá hằng triệu mỹ kim tiền viện trợ? Vụ PCI với Nhựt mà phía Nhựt đã xử lý đúng pháp luật. Còn Đảng và Nhà nước Hà nội đã làm tới đâu? Sao không biết thấy xấu hổ với người ta? Nhân viên Hàng không cầm nhiều trăm ngàn tiền mặt vào Úc bị bắt. Và nhiều lần. Tiền ở đâu có nhiều vậy? Và cầm để làm gì cho cảnh sát Úc bắt? Vụ Tổng Giám đốc hãng bia ăn cắp mắt kiếng ở Thái lan, Giám đốc Bệnh viện ăn cắp rượu ở Singapore? Vụ Đại diện Nhà nước Hà nội buôn lậu sừng tê giác ở Nam-phi, vụ Đại sứ Lê Bằng mò sò bị cảnh sát Mỹ bắt, vụ Tòa Đại sứ Hà nội tham nhũng trong việc cấp Visa ở Tiệp bị Chánh phủ Tiệp cấm người Việt nam nhập cảnh trong một thời gian dài? Vụ phản văn hóa trắng trợn hơn hết là Đại biểu Quốc hội Hà nội tuyên bố trước Quốc hội Âu chấu rằng dân Việt nam không cần tự do ngôn luận? Ông Sơn dạy “giữ gìn phẩm giá con người Việt nam, tạo được nhiều ấn tượng tốt đẹp với nhân dân sở tại”. Vi phạm luật pháp quốc tế, ăn cắp hàng Siêu thị, tham nhũng hối lộ không xét xử, đó là những ấn tượng tôt đẹp với nhân dân sở tại à? Hay hình ảnh Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Hà nội còn có thể xấu hơn nữa? Ông Sơn nói về “phẩm giá …, về ấn tượng tốt đẹp …” không khác kẻ cướp nói về đạo đức, lương thiện, gái điếm to mồm nói về tiết hạnh khả phong. Ấn tượng tốt đẹp, mà sao Giám mục Ngô Quang Kiệt, lúc xảy ra vụ ăn cắp Siêu thị ở Nhựt, lớn tiếng nói rằng “ Tôi lấy làm nhục nhã khi phải cầm hộ chiếu Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam ra nước ngoài”?

.

f – Trí thức phản biện là chống Đảng

Ông Nguyễn Thanh Sơn kêu gọi trí thức, chuyên gia, doanh nhân người Việt ở nước ngoài về góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước trong lúc đó đảng và Nhà nước ngược đãi trí thức trong nước.

Đối với trí thức, ngày 24 tháng 7 năm 2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/09/2009 để hạn chế và kiểm soát các nghiên cứu của giới trí thức trong nước. Nội dung của Quyết Định 97 nêu rõ trong Điều 2, khoản 2 về cá nhân thành lập tổ chức khoa học công nghệ“ nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chánh sách của đảng, Nhà nước, cần gởi ý kiến đó cho cơ quan đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hay gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học và công nghệ”. Phân tích kỹ thì ta thấy Quyết Định 97 này chứa đựng rõ ràng những chủ trương độc tài và các biện pháp đàn áp các quyền tự do căn bản của những người làm khoa học ở trong nước. Dụng tâm của Quyết Định là tìm cách ngăn chặn những tiếng nói xây dựng chân thành nhưng rất thẳng thắng về những vấn đề bức xúc của đất nước. Từ ngữ phản biện trên đây chứa đựng nội dung nhận xét, đánh giá một đề án, một công trình hay một chánh sách của một cá nhân, một đoàn thể hay của một chánh phủ đã, đang hoặc sẽ được thi hành nhưng muốn công việc phản biện có hiệu quả thì nó phải mang tính công khai, minh bạch, độc lập và tự do. Để phản đối Quyết Định 97 này, ngày 14/09/2009, Viện Nghiên cứu phát triển (IDS), một cơ quan nghiên cứu độc lập, chỉ nhằm góp ý cho Chính phủ, cho các cơ quan công quyền một cách xây dựng để sửa chửa sai lầm, đã công bố tự giải thể vì không thể tiếp tục hoạt động theo sứ mạng phát triển đất nước. Quyết định này sẽ làm đất nước tụt hậu hơn nữa khi Chánh quyền không chịu nghe những ý kiến xây dựng của các chuyên gia trong nước. Trước hành động ngang ngược của chế độ Hà nội, Giáo sư Carl Thayer, một chuyên gia nghiên cứu về tình hình Á châu Thái bình dương của Úc đã đưa ra nhận định sau đây: “Từ đây Việt nam sẽ bị trở ngại nặng nề, vì Nhà nước sẽ thiếu những quan điểm khác biệt, mặc dù có thể gây ra những tranh cãi, nhưng vẫn giúp cho Chính quyền thấu hiểu mọi mặt của nhiều vấn đề và đưa ra những chính sách khôn ngoan trong việc hội nhập với thế giới. Việc ngăn cấm những nhà trí thức lên tiếng, gạt bỏ những đóng góp của họ là một bước lùi của Việt nam, và sẽ khiến Việt nam dần dà không còn cạnh tranh hiệu quả với thế giới”(16). Về vấn đề phản biện có lẻ cấn phải nhắc lại ở đây phản ứng của ông Nguyễn văn Hưởng, Thứ trưởng Công an rằng: “Đảng lãnh đạo, không phản biện gì hết. Phản biện là chống Đảng”!

Khi biết rõ bộ mặt thật của Đảng và Nhà nước đối với trí thức, cụ thể như trường hợp Giáo sư Toán học Hoàng Tụy hưởng ứng chủ trương cải tổ giáo dục, ông đưa ra đề nghị phải cải tổ từ gốc, tức thay đổi toàn bộ triết lý giáo dục hiện nay và ông cho rằng việc “cải cách giáo dục hiện nay chỉ là một hành động vá víu, tạm thời, khiến nhiều thế hệ học sinh trở thành một vật thí nghiệm cho một chính sách giáo dục nửa vời”. Nói một cách tóm tắt, theo ông Hoàng Tụy, thì giáo dục Việt nam hiện nay sa sút vì quản lý kém, và cần cải cách có hệ thống, chớ không đổi mới vụn vặt. Rất tiếc những đề nghị chí lý của ông không được những người có thẩm quyền quan tâm lắng nghe. Qua vài trường hợp điển hình như trên đây, chúng tôi chắc chắn những trí thức Việt nam biết tự trọng ở nước ngoài, dù có tâm huyết cách mấy đi nữa, cũng không thấy phấn khởi đi về góp phần xây dựng đất nước trong lúc này.

Đối với doanh nhân ở trong nước, Đảng và Nhà nước không biết tôn trọng quyền làm ăn của họ, trái lại còn tìm cách bắt bớ và cướp giựt tài sản của họ. Còn hưởng ứng lời kêu gọi về làm ăn, thì có vụ Trịnh Vĩnh Bình và nguyễn Gia Thiều cần nhắc lại đây như hai trường hợp điển hình .

Năm 2005, vụ án Trịnh Vĩnh Bình làm sôi động dư luận người Việt trên toàn thế giới vì bị kiện tới Tòa án quốc tế tại Thụy điển. Ông Bình vào đầu thập niên 90 đã mang từ Hòa lan về Việt nam đầu tư khoảng 4 triệu đô-la. Khi số tài sản của ông Bình lên tới khoảng 20 triệu đô-la thì bị công an gài bẫy. Bị vào tù và tài sản bị cướp trắng. Vụ án này liên quan tới Tổng cục 2, Bộ Quôc phòng, dính líu tới một số nhân vật quan trọng trong bộ máy chánh quyền. Nghe chừng khó thắng kiện trước Tòa án quốc tế và để tránh xấu hổ trước dư luận, Chánh quyền Hà nội đã điều đình hoàn trả cho ông Bình một số tiền thiệt hại khá lớn để chấm dứt vụ tranh tụng.

Vụ thứ hai khá ồn ào được người trong nước chú ý nhiều liên quan tới một việt kiều ở Pháp là ông Nguyễn Gia thiều. Ông này bị xử hai năm tù về tội “buôn lậu trốn thuế” và phải nộp phạt 1 trăm 30 tỷ đồng .

Một số nhà đầu tư người Việt ở nước ngoài cho biết rằng chỉ số an toàn nguồn vốn kém bảo đảm vì phải dựa vào một nhân vật quyền thế ở trong nước. Tội “trốn thuế” thường được nhà cầm quyền dựa vào để có cớ “quản lý tài sản” cũng như bắt giam người đầu tư. Vì luật pháp không minh bạch nên nhiều người đầu tư phải bỏ của chạy lấy người .

Có lẽ cũng nên nhắc lại rằng quốc nạn tham nhũng làm nhiều nhà đầu tư nước ngoài ngao ngán và đồng thời còn là một trở ngại rất lớn cho sự phát triển đất nước. Tổ chức Minh bạch quốc tế (Transparency International) ngày 18/11/2009 đã công bố Việt nam là một trong những nước “có hạng” về tham nhũng. Theo Chỉ số tham nhũng (Corruption Perception Index), Việt nam được xếp hạng 120/180. Việt nam cùng với Phi-luật-tân, Đông Timor, Cao-miên, Lào và Miến điện là nhưng nước “đội sổ” trong khu vực Đông nam á về tham nhũng (17) .

Trước thực tế ngược đãi trí thức và doanh nhân, chắc chắn đại đa số người Việt hải ngoại có thừa khôn ngoan để không hăng hái về hợp tác trong lúc này.

Kết thúc bản tổng kết Hội nghị, ông Nguyễn Thanh Sơn cho rằng Hội nghị là “cơ sở quan trọng phục vụ tổng kết việc thực hiện NQ 36 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chánh phủ về công tác đối với người Việt nam ở nước ngoài vào năm 2010 và qua đó phát huy trí tuệ của Cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài đóng góp vào việc chuẩn bị cho Đại Hội XI của Đảng”.

Chúng tôi nghĩ rằng Cộng đồng Người Việt nam ở nước ngoài chỉ có một số ít người mới hưởng ứng NQ 36 và Chương trình hành động của Chính phủ về công tác đối với Người Việt nam ở nước ngoài. Đây là những “thằng ngốc hữu ích”, nói theo Lê-nin. Người cộng sản cho họ là “hữu ích” bởi họ là những người chạy theo chế độ, nịnh bợ chế độ, tự nguyện làm lợi không công cho chế độ, còn “ngốc” là vì ngây thơ bị một chế độ vô ơn bạc nghĩa lợi dụng mà không biết.

.

III- Đánh giá tổng kết Hội nghị

Nhìn chung Hội nghị Người Việt ở nước ngoài hôm 26-11-2009 tại Hà nội chỉ là cơ hội để Đảng và Nhà nước cộng sản tuyên truyền chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước với cộng đồng người Việt hải ngoại, đánh giá cao địa vị và vai trò của người Việt hải ngoại trong sự hợp tác xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa. Hà nội kêu gọi người Việt hải ngoại đoàn kết với cộng đồng dân tộc, nhưng phải đoàn kết dưới trướng của Đảng cộng sản Hà nội. Đảng cộng sản và Nhà nước hoàn toàn không nhắc tới tại sao có khối 4 triệu người việt sinh sống ở hải ngoại ngày nay để Hà nội kêu gọi họ đoàn kết và về giúp nước. Số người Việt ở hải ngoại lên tới 4 triệu phải hiểu đã có không dưới nửa triệu là bà con ruột thịt của họ đã bỏ mình trong lòng đại dương khi vượt biển, chết dọc đường rừng núi trên đường đi tìm tự do vào những năm 89/90 khi các trại tỵ nạn hải đảo đóng cửa. Cũng chỉ vì cưỡng bách áp đặt chế độ xã hội chủ nghĩa trên cả nước mà Hà nội đã gây ra thảm họa cho dân tộc. Đảng cộng sản và Nhà nước Hà nội chưa bao giờ biết nhận lỗi, biết sám hối những tội ác tày trời của mình đối với dân tộc. Chí ít, những lời hối tiếc về những tội ác ấy, cũng không. Đảng cộng sản lúc nào cũng cho mình không bao giờ sai lầm (!) .

Trái lại, với thái độ của kẻ lãnh đạo lương thiện, có văn hóa cao, Nhật Hoàng và Chính phủ Nhật thành tâm cúi đầu nhận lỗi đã gây ra thảm cảnh chiến tranh trước các dân tộc nạn nhân ở Á châu.

Gần đây, Giáo Hoàng ở Vatican tỏ lời xin lỗi các nước ở Âu châu vì trong Thế chiến II Vatican đã có thời gian ngắn cộng tác với Đức quốc xã .

Xin lỗi chỉ là cử chỉ nói lên sự biết lỗi của người làm lỗi. Nhưng quan trọng, đó là cử chỉ của người văn minh vì có văn hóa .

Đảng cộng sản Hà nội chẳng những không biết xin lỗi đồng bào, còn chủ trương đập phá những mộ bia, những tượng đài kỷ niệm thuyền nhân trên các đảo tỵ nạn ở Nam-dương và Mã-lai. Phải chăng làm như vậy, Hà nội muốn quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, thực hiện tinh thần Nghị Quyết 36? Qua những hành động thô bạo đó, Đảng và Nhà nước công khai biểu lộ lòng thù hận đối với cả những tấm bia đá, tức thù hận cái quá khứ của khối người Việt hải ngoại, thế mà Đảng và Nhà nước còn can đảm ca ngợi họ là “khúc ruột ngàn dặm”, “một bộ phận dân tộc không thể tách rời”, bảo họ “hãy quên đi quá khứ, cùng nhìn về tương lai”, và còn mời gọi họ về hợp tác xây dựng đất nước nữa !.

Thử nhìn lại cái Đảng đang lãnh đạo đất nước có hơn 3 triệu đảng viên, có ai là người được nhân dân tín nhiệm và chọn lựa không? Thế mà 14 tên của Bộ Chính trị lại nắm trọn quyền sinh sát cả dân tộc, không chia sẻ, không khoan nhượng, còn thẳng tay đàn áp những người yêu nước lương thiện muốn đóng góp ý kiến cải thiện chế độ, xây dựng đất nước.

Vậy thử hỏi Đảng cộng sản và Nhà nước có phải là những người thật lòng biết quí trọng giá trị con người hay chỉ biết ham mê của cải và cần sử dụng sự hiểu biết của kiều bào hải ngoại cho ích lợi riêng của nhóm cầm quyền?

Nếu biết trọng người, họ đã không có thái độ lớn lối, cao ngạo của “người thắng trận”, của kẻ cầm quyền như thế. Vẫn là thái độ kiêu căng vô lối của kẻ thành công nhờ tài dối gạt và bạo lực, nên không cần nghe ai ngăn cản hay phản biện. Họ chỉ cần dạy bảo, ban ơn, ban phát bằng khen, huân chương. Những điều này, chỉ có những người thiếu nhân cách và thiếu tự trọng mới có thể cúi đầu tiếp nhận.
Rất tiếc trong Hội nghị đã không có đại biểu dám lên tiếng đặt vấn đề trọng đại về lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo, về bảo vệ ngư dân, về khai thác bô-xít, về đảng là một hệ thống tham nhũng, về Nghị quyết 97, v.v … …

Biết trước bản chất trịch thượng, kẻ cả và vô ơn bạc nghĩa của Đảng cộng sản nên tuyệt đại đa số người Việt ở nước ngoài vẫn thờ ơ, trong khi vốn liếng vật chất và nhân sự của khối người Việt hải ngoại vô cùng phong phú, như một khối vàng ròng của cả 2, 3 thế hệ. Sức mạnh này vẫn ở ngoài tầm huy động của thứ chính quyền độc đoán và tham lam.

Chỉ khi nào ở Việt nam có một chế độ dân chủ tự do thật sự không xã hội chủ nghĩa, thì lúc ấy, chỉ lúc ấy, người Việt hải ngoại sẽ tức khắc cùng nhau mang tài sản và hiểu biết về giúp đất nước quê ương, không một chút e ngại đắn đo. Lúc ấy, chỉ cần một thời gian ngắn đủ cho Việt nam vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các nước láng giềng.

Yêu nước, giữ nước và xây dựng đất nước, đó chính là Văn hoá Việt nam muôn đời. Hội nghị này có riêng một Ban hội thảo về Văn hoá Dân tộc. Nhưng diễn đàn này đã không dám đặt vấn đề quan trọng, vấn đề cốt lõi là văn hoá chánh trị đã có trong nếp sống văn hóa dân tộc. Khi đất nước bị một chế độ bạo ngược cai trị, thì phải thay đổi chế độ ấy bằng một chế độ của dân, do dân, vì dân. Tức một chế độ mà người dân có thực quyền kiểm soát hữu hiệu và thường xuyên người cầm quyền. Bởi vì không có gì vô văn hoá, phản văn hóa hơn là người cai trị dân của mình lại cậy độc quyền về quyền lực tước đoạt hết mọi quyền tự do của dân, chỉ nhằm phục vụ riêng cho lợi ích của phe nhóm cầm quyền như hiện nay ở Việt nam.

Trên thực tế ngày nay, ở Việt nam xã hội chủ nghĩa, đảng viên chức vụ càng cao, quyền hành càng mạnh, thì càng giàu sụ trong lúc đó người dân ngày càng nghèo và càng bị Chính quyền trấn lột. Chính quyền cướp đoạt tài sản của dân chúng trở thành phổ biến. Điển hình, ngày 30-11-2009, tại Đồng Muối, Khu Tân Bình, Phường Phước Long, Nha trang, hàng ngàn người dân tập trung biểu tình phản đối Chính quyền cườp đất đai của họ. Lập tức Đảng và Nhà nước gởi hàng trăm công an trang bị roi điện, dùi cui, vòi ròng, xe xúc đất, kéo tới giải tán biểu tình. Có nhiều người bị thương và 13 người bị bắt, ném lên xe chở đi (18).

Ông Nguyễn Minh Triết gần đây vẫn khẳng định “Việt nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.” (19)

Mà con đường này, theo Ts Vũ Minh Khương ở Việt nam thì chỉ là “con đường lùi… rộng rãi thênh thang” (20) mà thôi !

Ai cũng thấy, chính vì Đảng cộng sản đã đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong mấy chục năm qua nên hiện nay nước ta, dù có tăng trưởng kinh tế, nhưng vẫn còn lạc hậu khá xa so với các nước láng giềng. Thế mà ông Nguyễn Minh Triết vẫn kêu gọi nhân dân xây dựng con đường xã hội chủ nghĩa. Vậy thì về phiá chúng ta, người Việt nam ở nước ngoài cũng phải kiên định con đường bất hợp tác với chánh quyền Hà nội . Đồng thời chúng ta cần nỗ lực tranh đấu cho Việt nam có được càng sớm càng tốt một chế độ dân chủ thật sự, chớ không phải một chế độ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” như hiện nay (21) .

Dân chủ thật sự có nghĩa là :

- dân chủ đa đảng, chớ không phải độc đảng như hiện nay,

- phải có ứng cử và bầu cử tự do, chớ không phải “đảng cử, dân bầu” như hiện nay,

- phải thực hiện các quyền tự do căn bản phổ quát của nhân dân theo tiêu chuẩn của LHQ, chớ không phải theo các quyền tự do bánh vẽ đã ghi trong Hiến pháp 1992 như hiện nay,

- phải thực hiện tam quyền phân lập hoàn toàn độc lập với nhau, chớ không phải một sự phân nhiệm 3 quyền đó dưới sự lãnh đạo duy nhứt của Đảng như hiện nay.

.

Paris, ngày 19/02/2010

Nguyễn Văn Trần và Võ Nhơn Trí

© Đàn Chim Việt Online

Ghi chú

(1) Trần Thanh Hiệp và Võ Nhơn Trí, Viễn Tượng Việt nam, số 3, 10/2004, Paris

(2) Far Eastern Economic Review, 18-11-93, Hongkong , tr 11

(3) Nguyễn văn Trần, Viễn tượng Việt nam, 5/11/2005, Paris. Xem thêm Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, Tưởng Vĩnh Kính, tr.357 “Hồ Chí Minh (tâm sự với cán bộ thân tín) thà để cho thực dân Pháp đô hộ thêm 5, 10 năm nữa còn hơn để các đảng phái quốc gia giành được Chánh quyền một nước Việt nam độc lập ”.

(4) Trần Thanh Hiệp và Võ Nhơn Trí, Viễn Tượng Việt nam, sđd

(5) Thông Tin số 49/2009, trang 36, Hannover, Đức

(6) Dương văn Lượng, “Tăng cường vận động Người Việt nam ở nưóc ngoài tham gia xây dựng đất nước trong thời kỳ mới”, Tập Chí Cộng sản điện tử, số 16 (184), 8/2009 . Những phần kế tiếp liên hệ tới ông Dương văn Lượng đều trong tài liệu này .

(7) Bùi Tín, Thông Tin số 49/2009, trang 38, Hannover, Đức

(8) Võ Nhơn Trí, Việt nam cần đổi mới thật sự, trang 142, Đông Á, 2003, Canada, trích Soljenitsyne, nhà văn Nga, giải Nobel văn chương: “Bạo lực chỉ có thể che dấu bằng dối trá, dối trá chỉ có thể duy trì bằng bạo lực ” và ông đưa bình luận vào thực tế việt nam: “Bạo lực cách mạng được nâng lên thành thể chế. Dối trá của đảng và Nhà nước đối với nhân dân được nâng lên thành quốc sách. Hai hiện tượng này có quan hệ gắn bó hữu cơ gắn bó mật thiết với nhau ” .

(9) Lịch sử Kinh tế VN 1945-2000, do Viện Kinh tế VN xb, Hà nội, trích theo Viễn Tượng Việt nam, số 10, 7/2008, Paris.

(10) Nguyễn Tấn Dũng, có thể đọc tại : thuvienphapluat.com

(11) Nguyễn Thanh Sơn, “Báo cáo tổng kết Hội nghị về NVNONN”, Hà nội, quehuongonline.vn

(12) Gs Steve B. Young gọi cộng sản và những người cầm quyền ở Hà nội ngày nay

(13) Thông Tin số 49/2009, Hannover, Đức .

(14) Huỳnh Tâm, “Chọn đường cỏ, bỏ mạng đường xa, Lật mặt mafia cộng sản hà nội ”, nhanaionline.fr và các bài của Nguyễn thị Cỏ May về đề tài này, trên dhspsg.org

(15) Huỳnh Tâm và Nguyễn thị Cỏ may, đd

(16) Carl Thayer, Thông Tin, số 51/2009, tr. 14, Hannover, Đức

(17) Thông Tin, số 51/2009, tr.1

(17) Thông Tin, số 51/2009, tr.1

(18) Việt Báo online, ngày 02/02/2010 .

(19) Nguyễn Minh Triết, TTXVN, 20:12/2009

(20) Ts Vũ Minh Khương, do Lê Diển Đức trích Talawas blog, 15/12/2009

(21) Võ Nhơn Trí, Việt nam cần đổi mới thật sự, sđd, tr. 179 và kế tiếp

.

.

.

No comments: