Quyền
ăn trộm, quyền kể chuyện và phẩm giá quốc gia
Nguyễn Hoàng Văn
14/10/2025
https://baotiengdan.com/2025/10/14/quyen-an-trom-quyen-ke-chuyen-va-pham-gia-quoc-gia/
Tin Mưa
Đỏ dự tranh Oscar đến với tôi hầu như cùng lúc với tin người Nhật xuống
đường phản đối người Việt, rồi vụ này và vụ kia, mới rợi, của “công nghiệp trộm
cắp” trên đất Nhật, như một chuyện dài feuilleton [1]. Ê chề
và nhục nhã nên tôi, bất giác, lại tự hỏi mình là, giả như cái giấc mơ Oscar
kia mà thành hiện thực, cái vinh này sẽ vớt vát được mấy phần của cái nhục này?
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/10/1-59.jpg
Phim
Mưa Đỏ dự tranh giải Oscar. Nguồn: VTV 24
Xem
như tương quan giữa thành tựu điện ảnh với phẩm giá quốc gia và tôi lại nghĩ
ngay đến… Iran. Rất có thể, với ai đó, danh từ “Iran” luôn gợi lên những cảm
giác bất an nếu không nói là ác cảm thì, ngược lại, chính những tinh hoa của điện
ảnh Iran lại giúp tôi nhìn về đất nước và con người ở đây với rất nhiều thiện cảm.
“Iran”,
đó là những vấn đề nhân quyền lưu cữu suốt mấy chục năm. “Iran”, đó là những
giáo lệnh bất chấp luật pháp quốc tế, ngang ngược hạ lệnh xử tử công dân của nước
khác chỉ vì đi trái với tín ngưỡng của mình [2]. “Iran” còn khiến chúng ta, thỉnh
thoảng, lại xót ruột những khi đổ xăng vì sự quấy nhiễu trên eo biển Hormuz,
huyết mạch lưu thông của nguồn cung ứng dầu mỏ toàn cầu. Và “Iran”, mới đây, tại
Úc, đã hành xử như là côn đồ khi, thông qua Tòa Đại sứ Iran, thuê mướn giới xã
hội đen đốt phá các thánh đường Do Thái giáo, dẫn đến việc bị đóng cửa, tuyệt
giao [3].
Nhưng
đó chỉ đơn thuần là một hệ thống giáo quyền chống lại con người. Là cái bộ máy
cai trị đang cướp bóc tài nguyên quốc gia như là của riêng và đang trộm cướp lịch
sử, văn hóa cùng tín ngưỡng của Iran để chính danh hóa việc đè đầu cưỡi cổ người
dân Iran. Nó không hề là dân tộc Iran với một bề dày lịch sử – văn hóa mà tôi
thấm thía được từ những câu chuyện chan chứa tình người, trong một ngôn ngữ điện
ảnh tinh tế, đầy cảm xúc.
Như Màu
của Thiên Đường (The Color of Paradise) mà, ngay từ phút đầu
tiên, đạo diễn Majid Majidi, cũng là nhà sản xuất, đã khiến chúng ta chùng lòng
với cảnh chú bé Mohammad tám tuổi, đứng trơ trọi chờ cha tại trường học dành
cho trẻ khiếm thị ở Tehran: Hè đã đến, những học sinh nội trú đã được thân nhân
đón về, còn mỗi mình chú đứng chờ trong vô vọng.
Cuối
cùng thì Hashem, người cha góa vợ, cũng đến chỉ để khiến chúng ta còn chùng
lòng hơn nữa. Xem đứa con tật nguyền là một gánh nặng, là mối hổ thẹn và là rào
cản cho hạnh phúc tương lai của mình khi, rất muốn tục huyền với một góa phụ,
Hashem lại thắc thỏm lo âu rằng, nếu phát hiện ra đứa con mù lòa, nhà gái sẽ hủy
hôn. Hashem tìm cách đẩy con ra càng xa càng tốt. Hashem muốn trường học phá lệ,
cho con mình nội trú trong mấy tháng hè. Không được thì Hashem lại, lén lút như
một tên ăn trộm, giấu mẹ mà mang con đến gởi gắm một người thợ mộc khiếm thị,
nói là nhờ dạy nghề.
Thầy
và trò cùng một số phận và chúng ta còn chùng lòng thêm khi nhận ra những nỗi
niềm khác nhau của họ về phần số của mình. Giàn giụa nước mắt, Mohammad than
trách Thượng Đế chẳng yêu thương gì mình nên mới bắt mình mù lòa. Người thầy
thì an ủi rằng, vì họ thiệt thòi, Thượng Đế sẽ càng yêu thương họ hơn. Nhưng nếu
thế thì tại sao Thượng Đế không thương yêu một cách bình thường đi, ngay từ đầu?
Mohammad muốn tìm Thượng Đế để hỏi cho ra lẽ và người thầy, dù bằng lòng với sự
an bài của Thượng Đế, lại ấm ớ, không thể giải đáp trọn vẹn. Chỉ có thể giải
thích chung chung rằng Thượng Đế có mặt ở mọi nơi và ai cũng có thể cảm nhận sự
hiện diện của Người, ông thầy dạy nghề đã lẳng lặng né tránh, như một tên đào
ngũ: Kẻ một lòng tin vào sự an bài Thượng Đế hoàn toàn không đủ sức biện minh
cho tình thương của Người.
Rồi
thì sự thật cũng phát lộ, nhà gái không chỉ xem Mohammad như một gánh nặng mà
còn là điềm xấu nên thẳng tay từ hôn. Không còn gì để giấu, Hashem đón con về
nhưng, trên đường, hai cha con đã bị cuốn trôi khi cây cầu ọp ẹp trên con sông
cuồn cuộn dòng nước dữ mùa lũ bị đổ. Đầu tiên chúng ta thấy Hashem bất động như
hóa đá khi con trai chới với giữa dòng nước, cơ hồ đang giằng xé giữa hai tâm
trạng, cứu con hay để đất trời giải thoát một gánh nặng nhưng, cuối cùng, bản
năng phụ tử đã thắng. Hashem nhảy xuống cứu con và bị cuốn theo dòng nước.
Trong
đoạn kết, chúng ta chứng kiến cảnh Hashem tỉnh dậy trên bờ biển, không xa thi
thể bất động của đứa con trai. Ông ta lảo đảo bước đến bế con rồi ngước mắt
nhìn lên bật khóc như thể than trách trong khi bầu trời không có gì là ảm đạm,
bi thương mà, trái lại, còn trong vắt, sáng rỡ ánh bình minh, lại rộn rã tiếng
chim gõ kiến báo hiệu một ngày mới vui tươi. Từ từ, ngón tay của Mohammad khẽ
khàng lay động như thể đang đánh vần theo hệ chữ của người mù và, tất cả, như
muốn nói lên rằng, trong cái chết, chú bé chưa bao giờ thấy ai trên cõi trần
này đã thấy được Thượng Đế mà mình tìm kiếm.
***
Cũng
cảm động như thế với chút hài hước, cũng của Majid Majidi, là Những đứa
trẻ của Thiên Đường (Children of Heaven). Câu chuyện xoay quanh
hai anh em Ali và Zahra, mới chín tuổi và sáu tuổi nhưng thấu hiểu cảnh nghèo
khi chủ nợ đều đặn réo gọi, nợ tiền trọ và nợ tiền thực phẩm. Bi kịch diễn ra
khi Ali vô ý làm mất đôi giày của Zahra và hai anh em dặn nhau phải giữ kín bởi
cha mẹ không thể nào kiếm ra tiền để mua một đôi giày mới. Giải pháp duy nhất
là dùng chung: Zahra mang giày của anh đi học vào buối sáng và khi tan học, Ali
tức tốc chạy đến điểm hẹn tại một ngõ vắng để lấy giày đi học buổi chiều.
Ngày
kia Zahra phát hiện một nữ sinh khác mang đôi giày của mình nên thầm lặng bám đến
tận nhà và sau đó cùng Ali đến tận nơi đòi lại. Tuy nhiên, khi phát hiện rằng
cha của bạn này bị mù, hai anh em lẳng lặng bỏ về, thôi thì mình đã khổ nhưng
có người còn đáng thương hơn. Hai anh em tiếp tục dùng chung và dần dà, với
Ali, mỗi lần đi học là một cuộc chạy đua, ngày càng bền bĩ, tốc độ.
Bi
kịch kế tiếp bi kịch với chút hài hước khi Zahra phát hiện rằng nữ sinh “đáng
thương” trên đã vứt bỏ đôi giày nhặt được của mình vì, nhờ học giỏi, được bố tặng
cho đôi giày mới. Yếu tố bi hài còn tiếp diễn khi Ali hay tin về cuộc thi điền
kinh mà giải nhì là một đôi giày và, dù đã trễ hạn, chú bé khẩn khoản trong nước
mắt để xin dự thi cho bằng được, khiến huấn luyện viên của trường kinh ngạc.
Không dự thi để giành cúp vô địch mà chỉ để kiếm một đôi giày cho em gái nhưng,
do phấn khích trong chặng đua cuối giữa những lời cổ vũ, Ali đã về vùng lên,
đích trước tiên và, do đó, đã thất hứa với em để chúng ta chứng kiến một nhà vô
địch buồn xo.
Thế
giới phi lý và bất toàn của người lớn đã được diễn tả một cách tinh tế thông
qua số phận của những đứa trẻ hồn nhiên nhưng phải từng giờ, từng ngày xoay xở
trong nghịch cảnh, và những câu chuyện nhẹ nhàng nhưng chan chứa tình người như
thế đã mang đến cho chúng ta bao nhiêu là thông điệp đầy ý nghĩa? Và chính những
tác phẩm như thế đã cho thấy sự vô nghĩa lý của những lời quy trách, đổ lỗi sự
yếu kém của nền điện ảnh cho vấn đề tài chính hay chế độ kiểm duyệt.
Để
kể lại những câu chuyện như thế, đâu nhất thiết phải ngốn một kinh phí khổng lồ?
Và có nơi nào mà sự kiểm duyệt có thể nghiệt ngã hơn một nhà nước thần quyền với
luật Sharia để bảo vệ thứ trật tự đã hình thành từ 1400 năm
trước? Có thể dẫn ra nhiều tác phẩm tuyệt vời như thế, Sun Children hay Ballad
of a White Cow v.v… nhưng, ở đây, tôi không có ý giới thiệu điện ảnh
Iran. Mà cũng quá dài dòng nếu điểm lại từng phim. Vấn đề chính là những tác giả
như thế đã vượt qua sự kiểm duyệt của một thể chế khắt khe để kể lại những câu
chuyện cần kể của đất nước và nhân dân mình. Và họ đã lay động trái tim chúng
ta, giúp chúng ta hiểu rõ rằng đất nước với những con người tài năng và tình
người là một việc, còn cái hệ thống giáo quyền áp bức kia là một việc.
Những
phim đó tôi xem từ chương trình World Movies trên Đài truyền hình SBS của chính
phủ Úc nhưng, cũng chương trình này, những phim Việt Nam lại làm tôi chán ngấy,
nhiều khi xem không nổi, trừ “Chuyện tử tế” của Trần Văn Thủy. Gần
đây nhất, với tôi, là “Gái Già Lắm Chiêu” mà SBS đặt tên bằng Anh
ngữ là Royal Bride, phát hình đâu từ ba năm trước. Dẫu đã tự dặn
mình là hãy cố lên, hãy xem bằng con mắt phân tích để, nếu đó là một phim dở,
thì chỉ ra cái dở và, thậm chí, nếu đó chỉ một thứ phim nhảm, thì phải tìm ra độ
nhảm nhí của điện ảnh Việt Nam nhưng tôi phải thú nhận sự thất bại của mình.
Tôi không đủ kiên nhẫn để hoàn tất sứ mạng tự giao phó kia mà đành bỏ cuộc, đầu
hàng chỉ sau hơn đâu chừng 30 phút.
Ấn
tượng đầu tiên là không có con người mà chỉ là những đơn vị ấp ủ âm mưu. Mưu
toan tiếp nối mưu toan, âm mưu tràn ngập đến… bội thực và yếu tố con người hoàn
toàn biến mất. Cả một đạo diễn bậc thầy như Trương Nghệ Mưu mà, khi lặn ngụp
trong biển âm mưu của Hoàng Kim Giáp, cũng bị hụt hơi để cuốn
phim với những kỹ thuật hay kỹ xảo điện ảnh siêu hạng này trở thành một sự phô
trương rỗng tuếch. “Gái già” cũng là một bộ phim rỗng tuếch như thế
và, cũng giống như những sản phẩm dở dở ương ương khác của điện ảnh Việt Nam,
không thoát khỏi sự giả: Một xã hội Việt Nam giả, những con người Việt Nam giả,
đang thực hành một thứ tiếng Việt giả.
Có
thể nói, tiếng Việt giả là mẫu số chung cho cái dở của điện ảnh Việt Nam. Các
nhân vật, đa số, ai cũng nói như đọc với những lời thoại vô hồn, sống sượng như
thể đọc văn mẫu vì ấp ủ quá nhiều thông điệp chính trị, đạo đức. Khi đã xem những
“phim Việt” nhưng với toàn là đồ giả, từ con người đến môi trường sinh hoạt hay
tiếng nói, cảm nhận của khán giả ngoại quốc cũng sẽ “giả” theo chăng?
Và
tôi nghĩ đến nỗi niềm của Masahiko Fujiwara – một nhà toán học và tiểu luận gia
Nhật từng nghiên cứu và giảng dạy tại các đại học Anh và Mỹ – về “phẩm giá” của
nước Nhật.
Trong
“Phẩm giá của một quốc gia” (The Dignity of the Nation), Fujiwara
nói đến cái khác giữa những người Nhật lớn tuổi và giới trẻ khi du lịch nước
ngoài. Giới cao niên thì hiếm người thành thạo Anh ngữ nên, khi đặt chân ra nước
ngoài, phần đông chỉ biết cười trừ khi được người ngoại quốc hỏi han cái gì đó
nhưng lại tạo nên ấn tượng về những người Nhật sâu sắc, thâm trầm, có cả một thế
giới nội tâm phong phú. Còn giới trẻ thành thạo ngoại ngữ nhưng thiếu bề sâu
thì, khi giòn giã đối đáp với người ngoại quốc, lại tạo nên ấn tượng về những người
Nhật nông cạn, rỗng tuếch. Theo Fujiwara, thì chính lớp trẻ này đã làm tổn
thương hình ảnh của nước Nhật và sỉ nhục những người Nhật không biết tiếng Anh
nhưng am hiểu sâu sắc về lịch sử, văn hóa Nhật. Ông mong rằng giới trẻ Nhật hãy
nói ít thôi khi du lịch bên ngoài bởi, càng nói, họ sẽ càng góp phần hạ thấp phẩm
giá của nước Nhật.
Nếu
Fujiwara kêu gọi giới trẻ “biết thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe” để giữ
gìn hình ảnh của đất nước thì, khi đứng ra đề cử Mưa Đỏ tranh
giải Oscar, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đang “thưa thốt” như thế
nào với Hàn Lâm Viện Điện Ảnh Mỹ, với giới điện ảnh quốc tế, và với nhân loại
nói chung?
Nếu
những tác phẩm điện ảnh Iran kể trên, như đã nói, diễn tả thế giới phi lý và bất
toàn của người lớn qua cái nhìn của những đứa trẻ hồn nhiên nhưng phải vật lộn
với nghịch cảnh thì, ở đây, tác giả của Mưa Đỏ đã làm điều ngược
lại. Mưa Đỏ, như tôi đã đề cập trong bài viết mới đây, chỉ là một sự hái lượm
linh tinh và là một sự cẩu thả về lịch sử đất nước. Và Mưa Đỏ,
trong cái nhìn từ những tinh hoa của điện ảnh Iran kể trên, lại là câu chuyện
mang tính định hướng chính trị mà nhà cầm quyền muốn kể cho những “đứa trẻ cao
niên”, theo cách diễn tả của Tản Đà:
Dân
hai nhăm triệu ai người lớn?
Đất
bốn ngàn năm vẫn trẻ con
(“Mậu
Thìn xuân cảm”, 1932)
Nói
cách khác, đó là nỗ lực “trẻ con hóa người lớn” trên ý nghĩa nhận thức lịch sử
và văn hóa. Và nếu những đạo diễn tài năng Iran cho chúng ta thấy một Iran với
bề dày văn hóa và lịch sử hoàn toàn khác với thiết chế giáo quyền đang cai trị
Iran thì, khi cái Bộ kia đứng ra đề cử Mưa Đỏ tranh giải
Oscar, cả hai lại là một.
Tin
Oscar này, như đã nói, đến với tôi cùng những tin tức nhói lòng về công nghiệp trộm cắp của người Việt trên đất Nhật và cái gì đã
khiến người Việt chúng ta sa đọa như thế? Tôi nghĩ đến nhận xét của Paul
Doumer, Toàn quyền Đông Dương rồi Tổng thống Pháp:
“Người
An Nam chắc chắn là một tộc người vượt trội so với các dân tộc chung quanh. Người
Cao Miên, Ai Lao và Xiêm La đều không chống lại được họ. Không một dân tộc
trong Đế quốc Ấn Độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật Bản mới có tộc
người có phẩm chất của người An Nam và giống như người An Nam. Người An Nam và
người Nhật Bản chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa. Cả hai đều cần cù,
thông minh, dũng cảm” [5].
Và
rồi, từ những trò trộm cắp lặt vặt và cụ thể trên đất Nhật, lại nghĩ đến những
hành vi chiếm dụng tài nguyên và trộm cắp lịch sử, văn hóa của dân tộc mình,
ngay trên đất nước mình, từ thập niên này đến thập niên khác.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/10/1-58-1024x608.jpg
Các
biển cảnh báo trộm cắp ở Nhật ghi bằng hai ngôn ngữ Nhật – Việt. Nguồn: DHNB
Khi
thế lực này độc quyền, cả quyền kể chuyện, thì việc tước đoạt hay xâm phạm quyền
sở hữu của người khác sẽ trở thành “bình thường” và cái giới không đủ bản lĩnh
văn hóa và đạo đức sẽ mặc nhiên xem việc trộm cướp của chúng là “bình thường”.
Đây,
phải chăng, là một trong những lý do chính khiến cho chúng ta sa đọa, khiến
chúng ta thản nhiên dẫm đạp lên phẩm giá của chúng ta?
---------------
Tham
khảo:
1. https://www.facebook.com/reel/762450913298661
https://www.facebook.com/reel/1310285477220748
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cqlzp019n6ko
Những
thông tin liên quan từ mạng xã hội trên chưa được kiểm chứng chính thức, tuy
nhiên, với “công nghiệp trộm cắp” của người Việt trên đất Nhật, những chuyện
như thế không có gì là lạ, bất thường.
2.
Khét tiếng nhất là giáo lệnh (fatwa) nhắm vào nhà văn Anh gốc Ấn Salman Rushdie
vì tác phẩm “The Satanic Verses” xuất bản năm 1988 khiến người Hồi giáo nổi giận,
cho là xúc phạm đến giáo chủ Mohammad. Năm 1989, Giáo chủ Ruhollah Khomeini,
lãnh tụ tối cao Iran, ra lệnh xử tử Rushdie khiến nguyên Thủ tướng Margaret
Thatcher cắt đứt quan hệ ngoại giao và ra lệnh cho bộ máy an ninh bảo vệ
Rushdie. Bà Thatcher đồng ý rằng ông Rushdie đã xúc phạm người Hồi giáo nhưng
đó là quyền tự do của ông ta và nước Anh sẽ bảo vệ đến cùng quyền tự do ngôn luận
này.
4.
Masahiko Fujiwara (2007), The Dignity of the Nation, IBC
Publishing. Sách song ngữ Nhật – Anh, phần Anh ngữ của Giles Murray. Những
ý tưởng trích dẫn trong bài được trình bày trong Chương II: “Logic Alone Will
Drive the World to Ruin”, trang 59-91.
5.
Paul Doumer (2016) Xứ Đông Dương, NXB Thế Giới, trang
92. Nguyên tác L’Indo-Chine Française xuất bản lần đầu
năm 1904, bản Việt ngữ của Lưu Đình Tuấn, Hiệu Constant, Lê Đình Chi, Hoàng
Long, Vũ Thủy. Nguyễn Thừa Hỷ hiệu đính.
Paul
Doumer làm Toàn quyền Đông Dương chỉ 5 năm (1897 -1902) nhưng đã cải cách triệt
để hệ thống khai thác thuộc địa, đắc cử Tổng thống năm 1931 nhưng năm 1932 bị
ám sát.
Từ
“Đế quốc Ấn Độ” trong đoạn trên được dùng để chỉ vùng Đông Nam Á (theo chú
thích của các dịch giả trong sách).
No comments:
Post a Comment