Thursday, October 9, 2025

BAO LÂU RỒI VIỆT NAM CHƯA CÓ BIỂU TÌNH? (Trường An   -   Luật Khoa)

 



Bao lâu rồi Việt Nam chưa có biểu tình?

Trường An   -   Luật Khoa

06/10/2025

https://luatkhoa.com/2025/10/bao-lau-viet-nam-chua-bieu-tinh/

 

https://luatkhoa.com/wp-content/uploads/2025/10/Bieu-tinh-vang-bong-Viet-Nam-1-2048x1152.jpg

Nguồn ảnh: RFA, BBC, Báo Quảng Bình, Báo Công an Nhân dân, Znews. Đồ họa: Thiên Tân/Luật Khoa.

 

Có lẽ nhiều người vẫn chưa quên hình ảnh vào năm 2018, đông đảo người dân trong và ngoài nước đã xuống đường để phản đối dự thảo Luật An ninh mạng và Luật Đặc khu. [1][2][3] Sự kiện năm ấy đã trở thành một dấu mốc tiêu biểu trong lịch sử biểu tình tại Việt Nam từ sau năm 1975.

 

Kể từ đó đến nay, người dân trong nước chưa có dịp nào chứng kiến trở lại một bầu không khí tương tự.

 

Dù rằng, ở năm 2025, những tình huống vốn phải là mồi lửa cho những cuộc biểu tình đã được nhóm lên:

 

Khái niệm đặc khu đã quay trở lại. [4]

 

Bộ Công an đang sửa đổi Luật An ninh mạng 2018 theo hướng thắt chặt nhân quyền hơn trước. [5][6]

 

Thế nhưng, không có bất kỳ cuộc biểu tình hay thảo luận nào của người dân về những vấn đề này.

 

Sự im ắng này không khỏi khiến ta nhớ về một giai đoạn “vàng” của biểu tình ở Việt Nam – thời điểm mà phong trào xuống đường của quần chúng diễn ra nhiều đến mức tưởng như khái niệm “biểu tình” đã được bình thường hóa, và có thể trở thành một nét văn hóa chính trị. [7] Thậm chí, có thời điểm Quốc hội còn chuẩn bị xem xét dự án Luật Biểu tình. [8]

 

Nhìn lại một quá trình kể từ sau năm 2019, đất nước đã trải qua những biến động lớn về chính trị, gồm cả những bê bối liên quan đến một dàn lãnh đạo cấp cao, hay sự xuất hiện của hàng loạt chính sách gây tranh cãi như cấm xe máy xăng. [9] Thế nhưng, không còn xuất hiện một cuộc biểu tình nào đủ lớn để tạo nên sức ép xã hội, và để khẳng định tiếng nói, sức phản kháng của quần chúng nhân dân. 

 

Vậy, nguyên nhân do đâu?

 

 

Hai khuynh hướng biểu tình nhưng chung một kết cục

 

Trước khi tìm kiếm nguyên nhân cho sự thoái trào của văn hóa biểu tình tại Việt Nam, ta hãy thử nhìn lại và phân loại những loại hình biểu tình đã từng diễn ra.

 

Dựa trên mục đích và đặc điểm của các cuộc biểu tình, có thể tạm chia các cuộc biểu tình ở Việt Nam thành hai loại hình chính.

 

Thứ nhất, hoạt động biểu tình liên quan trực tiếp đến đời sống dân sinh, mâu thuẫn lợi ích với chính quyền sở tại (Loại 1). 

 

Đơn cử cho loại hình này, có thể kể đến những vụ việc như tại Văn Giang (Hưng Yên, năm 2012), Đồng Tâm (Hà Nội, năm 2020), hay các cuộc bạo loạn ở Tây Nguyên. [10][11][12] Đây là những vụ biểu tình gắn với việc bảo vệ lợi ích chính đáng của một bộ phận người dân. Nó liên quan đến các vấn đề về đất đai, môi trường sống, tôn giáo, hay các quyền lợi cụ thể khác của một nhóm người nhất định.

 

Tuy nhiên, những cuộc biểu tình này thường đối kháng trực tiếp tới lợi ích của chính quyền nên không thể tồn tại hay gây tác động lâu dài. Thông thường, các vụ việc sẽ bị đàn áp ngay tại địa bàn diễn ra hoạt động, bị hạn chế tối đa về mặt truyền thông, và hầu hết người tham gia biểu tình sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. 

 

Trong vụ biểu tình chống cưỡng chế đất ở Văn Giang, hàng chục nông dân đã bị bắt giữ và nhiều người bị lĩnh án tù vì tội gây rối trật tự công cộng. [13][14] 

 

Ở vụ Đồng Tâm, 29 bị cáo đã bị đưa ra xét xử, trong đó hai con trai cụ Lê Đình Kình là ông Lê Đình Công và Lê Đình Chức bị tuyên án tử hình về tội giết người. [15]

 

Và gần trăm người trong vụ tấn công hai trụ sở ủy ban ở Đắk Lắk cũng bị đưa ra xét xử về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và bị quy cho những tội danh khác. [16]

 

Thứ hai, hoạt động biểu tình nhằm biểu đạt ý thức chính trị về các vấn đề quốc gia đại sự (Loại 2). 

 

Đây là những cuộc xuống đường nhằm phản ứng trước vấn đề như: chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm; phản đối các chính sách có ảnh hưởng rộng khắp; hay phản ứng với các vụ bê bối, sai phạm lớn như vụ Formosa (Hà Tĩnh). [17]

 

Chúng ta có thể thấy dấu ấn của các cuộc biểu tình này thông qua những vụ việc như: phản đối hành vi xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc (năm 2007năm 2012năm 2014), hay phản đối dự thảo Luật Đặc khu và Luật An ninh mạng vào năm 2018, v.v. [18][19][20][21]

 

Khác với loại thứ nhất, các cuộc biểu tình này có tính lan tỏa mạnh, bởi những vấn đề được nêu ra đều gắn với lợi ích chung của đất nước, thậm chí phù hợp với quan điểm chính thống của chính quyền ở góc độ chính sách ngoại giao hay vấn đề quốc gia – dân tộc. 

 

Cũng chính vì vậy, chính quyền tỏ ra dè dặt hơn, không thể dễ dàng phủ nhận tính chính danh của mục tiêu biểu tình, và cần nhiều thời gian để cân nhắc quyết sách đàn áp.

 

Dẫu mang sức sống và tạo nên tác động nhất định, như đã từng khiến Quốc hội quyết định lùi thông qua dự thảo Luật Đặc khu để trấn an dư luận. [22] Tuy nhiên, cái kết hiện thời ra sao thì ai cũng rõ. [23]

 

Có thể thấy, dù là biểu tình vì lý do gì thì kết cục vẫn giống nhau. Không ít người tham gia biểu tình đã bị vướng vào tù tội, bị sách nhiễu, bị bắt bớ.

 

Không chỉ vậy, có những cuộc biểu tình còn bị chụp mũ là do thế lực thù địch kích động hay lợi dụng lòng yêu nước. [24][25] 

 

Chưa kể, mỗi khi có cuộc biểu tình nào nổ ra, truyền thông nhà nước lại tích cực bôi đen các hoạt động này. [26] Theo thời gian, thay vì được nhìn nhận như một hình thức thực thi quyền công dân, biểu tình dần mang dáng dấp một hành vi nguy hiểm, đáng lên án, gây rối trật tự xã hội.

 

Dường như chính quyền Việt Nam đã thành công trong việc tạo nên “bóng đè tinh thần” về biểu tình. Người dân, theo đó, dần hình thành ý thức tự kiểm duyệt trước khái niệm này: không bàn luận, không chia sẻ, không tham gia, hay biết đâu chừng, còn không dám nghĩ đến. Câu hỏi ‘Biểu tình thì làm được gì?’ trở thành câu cửa miệng, phản ánh sự mất niềm tin vào khả năng thay đổi được điều gì đó thông qua hoạt động này. [27]

 

 

“Con dại cái mang” vì biểu tình

 

Sự thoái trào của văn hóa biểu tình, có lẽ không chỉ đến từ nỗi e ngại an toàn của tự thân những cá nhân tổ chức và tham gia.

 

Bởi lẽ, chính quyền Việt Nam không chỉ đàn áp trực tiếp những người tham gia biểu tình, mà còn gây áp lực lên thân nhân của họ.

 

Nghĩa là, nhà chức trách không chỉ có động thái trấn áp vật lý lên những cá nhân trực tiếp liên can, mà còn có nỗ lực trấn áp tâm lý, khiến người ta phải luôn thấy biểu tình là hành vi “bất thường”. 

 

Đó là chưa kể đến tính chất “xuyên biên giới” của bàn tay trấn áp.

 

Vào tháng 5/2025, Công an tỉnh Nghệ An đã làm việc với thân nhân của 18 người tham gia biểu tình tại London (Anh). [28] Phía công an cho rằng những người biểu tình bị các thế lực phản động lôi kéo tham gia hoạt động chống phá nhà nước trong dịp kỷ niệm ngày 30/4. Trong khi đó, nội dung biểu tình của họ là kêu gọi mở rộng tự do, dân chủ, đảm bảo nhân quyền cho người dân Việt Nam. [29]

 

Có thể thấy, dù người biểu tình có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng chính quyền Việt Nam vẫn sử dụng phương thức gọi thân nhân của những người biểu tình lên “làm việc”. Dẫu cho, đó không phải là một cuộc biểu tình diễn ra trong nước, mà được tiến hành dưới vòm trời của một hệ thống pháp lý và văn hóa chính trị khác.

 

Dưới cái mác “cảm hóa đối tượng lầm lỗi”, công an Việt Nam đã gây sức ép lên thân nhân của người biểu tình bằng nhiều cách thức khác nhau, để họ thuyết phục và gây sức ép lại cho “đối tượng lầm lỗi”. [30]

 

Thông điệp ngầm gửi đi là: tham gia biểu tình không chỉ gây hại cho bản thân, mà còn liên lụy đến gia đình, người thân.

 

Cũng vì vậy, dù nhiều người đồng cảm với mục tiêu của các cuộc xuống đường nhưng cũng không dám tham gia vì sợ “con dại cái mang”.

 

 

Quy định mơ hồ, quyền trên giấy 

 

Đến đây, ta phải trở lại tự hỏi: liệu biểu tình có phải là hành động phi pháp? Nếu không phi pháp, vì cớ gì người ta phải tìm mọi cách để ngăn cấm, cản trở?

 

Câu trả lời, có lẽ sẽ gây bối rối cho bất kỳ ai, rằng: biểu tình vừa hợp pháp, lại vừa… phi pháp.

 

Vì sao lại có chuyện oái oăm, lạ lùng như vậy?

 

Điều 25 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. [31] Tuy nhiên, điều này cũng nêu rõ “việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

 

Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp cũng quy định rõ việc giới hạn quyền biểu tình và những quyền con người khác như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”

 

Có thể thấy, những quy định quá rộng và mơ hồ nêu trên đã biến quyền biểu tình thành “quyền có điều kiện”, mà điều kiện ấy lại do chính quyền định nghĩa. Do đó, người dân không thể tiên liệu được trường hợp nào biểu tình sẽ bị hạn chế và hậu quả pháp lý sẽ ra sao.

 

Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có Luật Biểu tình. Các nghị định hiện hành như Nghị định số 38/2005/NĐ-CP chỉ quy định chung rằng mọi cuộc tập trung đông người ở nơi công cộng phải “đăng ký trước với Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền nơi diễn ra các hoạt động đó” và phải “thực hiện đúng nội dung đã đăng ký”. [32]

 

Trên thực tế, gần như không có một cơ chế nào cho phép người dân đăng ký biểu tình hợp pháp, khi mà chính quyền dễ dàng bác bỏ bất cứ đơn đăng ký nào, hoặc thậm chí có thể đặt ra những yêu cầu nghiệt ngã để người ta đủ thấy phiền hà để rút lui.

 

Thêm vào đó, chính quyền dễ dàng lợi dụng khoảng trống pháp lý trong Hiến pháp để đàn áp biểu tình nhân danh nghĩa bảo vệ lợi ích của quốc gia và cộng đồng.

 

Vậy khoảng trống pháp lý ấy, cụ thể đã được lợi dụng ra sao?

 

Nhìn vào những vụ việc thực tế đã được nêu ở trên có thể thấy rõ cách thức chính quyền Việt Nam áp dụng những quy định về biểu tình.

 

Người biểu tình dễ dàng bị quy kết vào hàng loạt tội danh trong Bộ luật Hình sự 2015 như: tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tội bạo loạn; tội phá rối an ninh; tội gây rối trật tự công cộng; v.v. [33]

 

Mức độ nhẹ hơn, người biểu tình có thể bị xử phạt về hành vi tụ tập theo các nghị định về an ninh, trật tự như Nghị định 144/2021/NĐ-CP. [34]

 

Kết quả là một nghịch lý: quyền biểu tình được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng không có công cụ pháp lý để thực thực thi. Người dân không thể tổ chức biểu tình hợp pháp, còn nếu tự phát xuống đường thì khả năng cao sẽ bị coi là “trái phép” và phải đối mặt với nguy cơ bị trừng phạt.

 

Nghịch lý hơn là, trong sách giáo khoa lịch sử, các cuộc biểu tình ở giai đoạn 1945 – 1975 được nói đến như biểu hiện của lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh vì tiến bộ và lẽ phải. Nhưng hiện tại, biểu tình lại được chính quyền tuyên truyền như một hành vi bất hợp pháp, lợi dụng lòng yêu nước để kích động đồng bào. 

 

Biểu tình, từ một góc độ nào đó, có thể nhìn nhận như một truyền thống văn hóa của người Việt Nam, hình thành từ lâu đời và duy trì xuyên suốt lịch sử đấu tranh của dân tộc. [35] Cứ khi nào và ở đâu có bất công, có đàn áp, ở đó có sự nổi dậy, đấu tranh. Và với những người dân chân lấm tay bùn, không vũ trang, thì tiếng nói và đám đông là vũ khí của họ.

 

Thế nhưng, khi một truyền thống bị chối bỏ vô thừa nhận, và một nét văn hóa bị từ khước bằng bạo lực, thử hỏi còn ai dám biểu tình?

 

 





No comments: