Bao lâu rồi
Việt Nam chưa có biểu tình?
https://luatkhoa.com/2025/10/bao-lau-viet-nam-chua-bieu-tinh/
https://luatkhoa.com/wp-content/uploads/2025/10/Bieu-tinh-vang-bong-Viet-Nam-1-2048x1152.jpg
Nguồn
ảnh: RFA, BBC, Báo Quảng Bình, Báo Công an Nhân dân, Znews. Đồ họa: Thiên
Tân/Luật Khoa.
Có
lẽ nhiều người vẫn chưa quên hình ảnh vào năm 2018, đông đảo người dân trong và
ngoài nước đã xuống
đường để phản đối dự
thảo Luật An ninh mạng và Luật Đặc
khu. [1][2][3] Sự kiện năm ấy đã trở thành một dấu mốc tiêu biểu trong lịch
sử biểu tình tại Việt Nam từ sau năm 1975.
Kể
từ đó đến nay, người dân trong nước chưa có dịp nào chứng kiến trở lại một bầu
không khí tương tự.
Dù
rằng, ở năm 2025, những tình huống vốn phải là mồi lửa cho những cuộc biểu tình
đã được nhóm lên:
Khái
niệm đặc khu đã quay trở lại.
[4]
Bộ
Công an đang sửa đổi
Luật An ninh mạng 2018 theo hướng thắt chặt nhân quyền hơn trước.
[5][6]
Thế
nhưng, không có bất kỳ cuộc biểu tình hay thảo luận nào của người dân về những
vấn đề này.
Sự
im ắng này không khỏi khiến ta nhớ về một giai
đoạn “vàng” của biểu tình ở Việt Nam – thời điểm mà phong trào xuống
đường của quần chúng diễn ra nhiều đến mức tưởng như khái niệm “biểu tình” đã
được bình thường hóa, và có thể trở thành một nét văn hóa chính trị. [7] Thậm
chí, có thời điểm Quốc hội còn chuẩn bị xem
xét dự án Luật Biểu tình. [8]
Nhìn
lại một quá trình kể từ sau năm 2019, đất nước đã trải qua những biến động lớn
về chính trị, gồm cả những bê bối liên quan đến một dàn lãnh đạo cấp cao, hay sự
xuất hiện của hàng loạt chính sách gây tranh cãi như cấm
xe máy xăng. [9] Thế nhưng, không còn xuất hiện một cuộc biểu tình nào đủ lớn
để tạo nên sức ép xã hội, và để khẳng định tiếng nói, sức phản kháng của quần
chúng nhân dân.
Vậy,
nguyên nhân do đâu?
Hai
khuynh hướng biểu tình nhưng chung một kết cục
Trước
khi tìm kiếm nguyên nhân cho sự thoái trào của văn hóa biểu tình tại Việt Nam,
ta hãy thử nhìn lại và phân loại những loại hình biểu tình đã từng diễn ra.
Dựa
trên mục đích và đặc điểm của các cuộc biểu tình, có thể tạm chia các cuộc biểu
tình ở Việt Nam thành hai loại hình chính.
Thứ
nhất, hoạt
động biểu tình liên quan trực tiếp đến đời sống dân sinh, mâu thuẫn lợi ích với
chính quyền sở tại (Loại 1).
Đơn
cử cho loại hình này, có thể kể đến những vụ việc như tại Văn
Giang (Hưng Yên, năm 2012), Đồng Tâm (Hà Nội,
năm 2020), hay các cuộc bạo loạn ở Tây Nguyên.
[10][11][12] Đây là những vụ biểu tình gắn với việc bảo vệ lợi ích chính đáng của
một bộ phận người dân. Nó liên quan đến các vấn đề về đất đai, môi trường sống,
tôn giáo, hay các quyền lợi cụ thể khác của một nhóm người nhất định.
Tuy
nhiên, những cuộc biểu tình này thường đối kháng trực tiếp tới lợi ích của
chính quyền nên không thể tồn tại hay gây tác động lâu dài. Thông thường, các vụ
việc sẽ bị đàn áp ngay tại địa bàn diễn ra hoạt động, bị hạn chế tối đa về mặt
truyền thông, và hầu hết người tham gia biểu tình sẽ phải chịu trách nhiệm hình
sự.
Trong
vụ biểu tình chống cưỡng chế đất ở Văn Giang, hàng
chục nông dân đã bị bắt giữ và nhiều người bị lĩnh
án tù vì tội gây rối trật tự công cộng. [13][14]
Ở
vụ Đồng Tâm, 29 bị cáo đã bị đưa ra xét xử, trong đó hai con trai cụ Lê Đình
Kình là ông Lê Đình Công và Lê Đình Chức bị tuyên án tử hình về
tội giết người. [15]
Và
gần trăm người trong vụ tấn công hai trụ sở ủy ban ở Đắk Lắk cũng bị đưa
ra xét xử về
tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và bị quy cho những tội danh khác.
[16]
Thứ
hai, hoạt
động biểu tình nhằm biểu đạt ý thức chính trị về các vấn đề quốc gia đại sự (Loại
2).
Đây
là những cuộc xuống đường nhằm phản ứng trước vấn đề như: chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm; phản đối các chính sách có ảnh hưởng rộng khắp;
hay phản ứng với các vụ bê bối, sai phạm lớn như vụ Formosa (Hà Tĩnh). [17]
Chúng
ta có thể thấy dấu ấn của các cuộc biểu tình này thông qua những vụ việc như:
phản đối hành vi xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc (năm
2007, năm
2012, năm
2014), hay phản đối dự thảo Luật Đặc khu và Luật An
ninh mạng vào năm 2018, v.v. [18][19][20][21]
Khác
với loại thứ nhất, các cuộc biểu tình này có tính lan tỏa mạnh, bởi những vấn đề
được nêu ra đều gắn với lợi ích chung của đất nước, thậm chí phù hợp với quan
điểm chính thống của chính quyền ở góc độ chính sách ngoại giao hay vấn đề quốc
gia – dân tộc.
Cũng
chính vì vậy, chính quyền tỏ ra dè dặt hơn, không thể dễ dàng phủ nhận tính
chính danh của mục tiêu biểu tình, và cần nhiều thời gian để cân nhắc quyết
sách đàn áp.
Dẫu
mang sức sống và tạo nên tác động nhất định, như đã từng khiến Quốc hội quyết định lùi thông qua dự
thảo Luật Đặc khu để trấn an dư luận. [22] Tuy nhiên, cái
kết hiện thời ra sao thì ai cũng rõ. [23]
Có
thể thấy, dù là biểu tình vì lý do gì thì kết cục vẫn giống nhau. Không ít người
tham gia biểu tình đã bị vướng vào tù tội, bị sách nhiễu, bị bắt bớ.
Không
chỉ vậy, có những cuộc biểu tình còn bị chụp mũ là do
thế lực thù địch kích động hay lợi
dụng lòng yêu nước. [24][25]
Chưa
kể, mỗi khi có cuộc biểu tình nào nổ ra, truyền
thông nhà nước lại tích cực bôi đen các hoạt động này. [26] Theo thời
gian, thay vì được nhìn nhận như một hình thức thực thi quyền công dân, biểu
tình dần mang dáng dấp một hành vi nguy hiểm, đáng lên án, gây rối trật tự xã hội.
Dường
như chính quyền Việt Nam đã thành công trong việc tạo nên “bóng đè tinh thần” về
biểu tình. Người dân, theo đó, dần hình thành ý thức tự kiểm duyệt trước khái
niệm này: không bàn luận, không chia sẻ, không tham gia, hay biết đâu chừng,
còn không dám nghĩ đến. Câu hỏi ‘Biểu tình thì
làm được gì?’ trở thành câu cửa miệng, phản ánh sự mất niềm tin vào khả
năng thay đổi được điều gì đó thông qua hoạt động này. [27]
“Con
dại cái mang” vì biểu tình
Sự
thoái trào của văn hóa biểu tình, có lẽ không chỉ đến từ nỗi e ngại an toàn của
tự thân những cá nhân tổ chức và tham gia.
Bởi
lẽ, chính quyền Việt Nam không chỉ đàn áp trực tiếp những người tham gia biểu
tình, mà còn gây áp lực lên thân nhân của họ.
Nghĩa
là, nhà chức trách không chỉ có động thái trấn áp vật lý lên những cá nhân trực
tiếp liên can, mà còn có nỗ lực trấn áp tâm lý, khiến người ta phải luôn thấy
biểu tình là hành vi “bất thường”.
Đó
là chưa kể đến tính chất “xuyên biên giới” của bàn tay trấn áp.
Vào
tháng 5/2025, Công an tỉnh Nghệ An đã làm
việc với thân nhân của 18 người tham gia biểu tình tại London (Anh).
[28] Phía công an cho rằng những người biểu tình bị các thế lực phản động lôi
kéo tham gia hoạt động chống phá nhà nước trong dịp kỷ niệm ngày 30/4. Trong
khi đó, nội dung biểu
tình của họ là kêu gọi mở rộng tự do, dân chủ, đảm bảo nhân quyền cho
người dân Việt Nam. [29]
Có
thể thấy, dù người biểu tình có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng chính quyền
Việt Nam vẫn sử dụng phương thức gọi thân nhân của những người biểu tình lên
“làm việc”. Dẫu cho, đó không phải là một cuộc biểu tình diễn ra trong nước, mà
được tiến hành dưới vòm trời của một hệ thống pháp lý và văn hóa chính trị
khác.
Dưới
cái mác “cảm
hóa đối tượng lầm lỗi”, công an Việt Nam đã gây sức ép lên thân nhân của
người biểu tình bằng nhiều cách thức khác nhau, để họ thuyết phục và gây sức ép
lại cho “đối tượng lầm lỗi”. [30]
Thông
điệp ngầm gửi đi là: tham gia biểu tình không chỉ gây hại cho bản thân, mà còn
liên lụy đến gia đình, người thân.
Cũng
vì vậy, dù nhiều người đồng cảm với mục tiêu của các cuộc xuống đường nhưng
cũng không dám tham gia vì sợ “con dại cái mang”.
Quy
định mơ hồ, quyền trên giấy
Đến
đây, ta phải trở lại tự hỏi: liệu biểu tình có phải là hành động phi pháp? Nếu
không phi pháp, vì cớ gì người ta phải tìm mọi cách để ngăn cấm, cản trở?
Câu
trả lời, có lẽ sẽ gây bối rối cho bất kỳ ai, rằng: biểu tình vừa hợp pháp, lại
vừa… phi pháp.
Vì
sao lại có chuyện oái oăm, lạ lùng như vậy?
Điều
25 Hiến
pháp 2013 ghi nhận: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. [31] Tuy nhiên,
điều này cũng nêu rõ “việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Khoản
2 Điều 14 Hiến pháp cũng quy định rõ việc giới hạn quyền biểu tình và những quyền
con người khác như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị
hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Có
thể thấy, những quy định quá rộng và mơ hồ nêu trên đã biến quyền biểu tình
thành “quyền có điều kiện”, mà điều kiện ấy lại do chính quyền định nghĩa. Do
đó, người dân không thể tiên liệu được trường hợp nào biểu tình sẽ bị hạn chế
và hậu quả pháp lý sẽ ra sao.
Cho
đến nay, Việt Nam vẫn chưa có Luật Biểu tình. Các nghị định hiện hành như Nghị
định số 38/2005/NĐ-CP chỉ quy định chung rằng mọi cuộc tập trung đông
người ở nơi công cộng phải “đăng ký trước với Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền nơi
diễn ra các hoạt động đó” và phải “thực hiện đúng nội dung đã đăng ký”. [32]
Trên
thực tế, gần như không có một cơ chế nào cho phép người dân đăng ký biểu tình hợp
pháp, khi mà chính quyền dễ dàng bác bỏ bất cứ đơn đăng ký nào, hoặc thậm chí
có thể đặt ra những yêu cầu nghiệt ngã để người ta đủ thấy phiền hà để rút lui.
Thêm
vào đó, chính quyền dễ dàng lợi dụng khoảng trống pháp lý trong Hiến pháp để
đàn áp biểu tình nhân danh nghĩa bảo vệ lợi ích của quốc gia và cộng đồng.
Vậy
khoảng trống pháp lý ấy, cụ thể đã được lợi dụng ra sao?
Nhìn
vào những vụ việc thực tế đã được nêu ở trên có thể thấy rõ cách thức chính quyền
Việt Nam áp dụng những quy định về biểu tình.
Người
biểu tình dễ dàng bị quy kết vào hàng loạt tội danh trong Bộ
luật Hình sự 2015 như: tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân;
tội bạo loạn; tội phá rối an ninh; tội gây rối trật tự công cộng; v.v. [33]
Mức
độ nhẹ hơn, người biểu tình có thể bị xử phạt về hành vi tụ tập theo các nghị định
về an ninh, trật tự như Nghị
định 144/2021/NĐ-CP. [34]
Kết
quả là một nghịch lý: quyền biểu tình được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng không
có công cụ pháp lý để thực thực thi. Người dân không thể tổ chức biểu tình hợp
pháp, còn nếu tự phát xuống đường thì khả năng cao sẽ bị coi là “trái phép” và
phải đối mặt với nguy cơ bị trừng phạt.
Nghịch
lý hơn là, trong sách giáo khoa lịch sử, các cuộc biểu tình ở giai đoạn 1945 –
1975 được nói đến như biểu hiện của lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh vì tiến
bộ và lẽ phải. Nhưng hiện tại, biểu tình lại được chính quyền tuyên truyền như
một hành vi bất hợp pháp, lợi dụng lòng yêu nước để kích động đồng bào.
Biểu
tình, từ một góc độ nào đó, có thể nhìn nhận như một truyền
thống văn hóa của người Việt Nam, hình thành từ lâu đời và duy trì
xuyên suốt lịch sử đấu tranh của dân tộc. [35] Cứ khi nào và ở đâu có bất công,
có đàn áp, ở đó có sự nổi dậy, đấu tranh. Và với những người dân chân lấm tay
bùn, không vũ trang, thì tiếng nói và đám đông là vũ khí của họ.
Thế
nhưng, khi một truyền thống bị chối bỏ vô thừa nhận, và một nét văn hóa bị từ
khước bằng bạo lực, thử hỏi còn ai dám biểu tình?
No comments:
Post a Comment