Trò chuyện với
nhà văn Nguyễn Lệ Uyên về văn học hải ngoại
Trần Doãn Nho/Người Việt
September 3, 2025 : 3:02 AM
KENNEDALE, Texas (NV) – Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên viết văn từ trước năm
1975. Sau 1975, ông vẫn tiếp tục viết, khi đăng chỗ này, khi đăng chỗ kia.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/08/VHNT-Tro-chuyen-Nguyen-Le-Uyen-1536x1152.jpg
Từ trái, Nguyễn Lệ Uyên, Trần Doãn Nho, Hoàng
Dũng. (Hình: Nguyễn Lệ Uyên)
Nhà văn Trần Doãn Nho của nhật báo Người Việt
cắc cớ hỏi “Có khi nào anh tự hỏi anh thuộc về ‘nền’ văn học nào không? Văn học
miền Nam? Văn học hải ngoại? Văn học trong nước? Ở giữa?” và nhà văn Nguyễn Lệ
Uyên thẳng thắn trả lời.
-Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên: Trước ngày đứt gãy, đoạn trường tôi cũng có năm, mười
truyện ngắn đăng trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn như một sự thôi thúc để giải
tỏa nhu cầu, cảm xúc trong đầu chớ không nghĩ mình là nhà văn nhà viết gì cả. Đứt
quãng hơn 10 năm mới rị mọ cầm bút trở lại y như sự đòi hỏi sinh lý, không nín
nhịn được, nhưng chẳng đâu vào đâu: truyện gửi đi khi báo biếu gửi về, lật ra đọc
lại thì thấy một nửa của mình, nửa kia của ai đó, y như khuôn mặt các cô gái
sau khi make up, đến tẽn tò!
Miền Nam, hải ngoại, trong nước… chỉ là cách
phân định nơi cư trú cho người viết do lịch sử đưa đẩy; còn khi viết là vì nghệ
thuật, vì cái đẹp từ những đam mê không thể dứt bỏ chứ không vì chủ nghĩa này nọ
như tiêu chí dưới logo báo Văn Nghệ Việt Nam!
Khái niệm miền Nam, trong nước, hải ngoại
chưa bao giờ hiện hữu trong đầu khi ngồi viết. Nhưng nghĩ và viết chàng hảng
như vài ba ông nhà văn cũ đang chơi trò nhí nhố cỏ lau (chữ của Phạm Ngọc Lư)
thì tôi không chịu nổi.
Tôi nghĩ chỉ có dòng văn học Việt Nam duy nhất
chia hai nửa: tự do và cung đình. Anh nào thích tung hê, ca ngợi sự lừa bịp, dối
trá thì cứ việc; còn sống và tự do viết theo cảm xúc riêng tư như một giá trị nội
tại thì anh cứ việc, dẫu trong hay ngoài nước. Tôi luôn tự hỏi mình viết được
gì chứ chưa bao giờ nghĩ mình thuộc về dòng văn học nào.
*
Trần Doãn Nho: Xin anh nói rõ thêm ý của Phạm Ngọc Lư về cái gọi
là “viết chàng hảng” và “nhí nhố cỏ lau” để chỉ một số nhà văn nào đó. Có phải
Phạm Ngọc Lư muốn nói về thái độ “hàng hai” của những nhà văn này?
- Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên: Có một thời gian khá dài, Phạm Ngọc Lư sống và dạy
học tại Tuy Hòa, Phú Yên, nơi anh viết những tác phẩm để đời, tiêu biểu là bài
thơ “Biên cương hành,” cùng lúc với Y Uyên, đã thành danh với gần mươi tác phẩm
về chiến tranh lấy bối cảnh tại vùng đất này.
Lư luôn trân trọng tất cả các bạn văn cùng thời.
Nhưng sau ngày đứt gãy, tan tác… có một số quay sang làm “nhà văn 75” viết những
bài thơ, truyện ngắn sặc mùi tụng ca, cùng lúc phủ nhận những gì mình viết trước
đó.
Tới khi Internet tràn vào Việt Nam, đám người
này lại vừa viết những tác phẩm ca ngợi những điều không thật đến lố bịch cho
các báo văn nghệ địa phương. Và cũng con người đó, lại thấy xuất hiện những bài
thơ, truyện ngắn trên các trang mạng hải ngoại, quay thẳng 180 độ! Phạm Ngọc Lư
gọi hiện tượng này là “nhí nhổ cỏ lau,” là “chàng hảng,” hàng hai không chút
liêm sỉ, khó chấp nhận!
*
Trần Doãn Nho: Cách anh phân chia hai dòng văn học Việt Nam hiện
nay, “tự do” (ám chỉ văn học hải ngoại) và “cung đình” (ám chỉ văn học trong nước),
tuy không hẳn là mới, nhưng lạ. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh, khi viết, ta viết
về cuộc sống y như là cuộc sống chứ không viết cho bất cứ một “nền” văn học
nào. Tuy nhiên, viết xong, nhà văn phải chọn lựa chỗ thích hợp để công bố tác
phẩm của mình chứ?
-Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên: Tất nhiên, mỗi một nhà văn đều có một thái độ lựa
chọn nơi tương xứng với những “đứa con tinh thần” của mình, đó là cách hành xử
của riêng từng cá nhân. Đã là nhà văn, người luôn xiển dương cái đẹp đến cho độc
giả thì luôn có nhân cách cao đẹp; vì vậy họ tự biết phải đặt tác phẩm đã dốc hết
tâm huyết của mình vào nơi nào thích hợp.
Cái liêm sỉ của người cầm bút là thái độ lựa
chọn đúng đắn chứ không thể đánh đổi bằng những câu hô hào, lừa mị để bảo toàn
cuộc sống. Tôi rất kính trọng nhân cách nhà thơ Hữu Loan, nhưng thỉnh thoảng ngồi
nhấm nháp lại “Chén trà trong sương sớm” của cụ Nguyễn Tuân sao thấy có chút gì
nghèn nghẹn từ những ám ảnh trong tập bút ký “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” của cụ!
*
Trần Doãn Nho: Đâu chỉ có Nguyễn Tuân, anh. Và cũng không mấy
ngạc nhiên khi có những nhà văn miền Nam 54-75 biến mình thành “nhà văn 75” để
được tồn tại. Riêng anh, anh đã đến với văn học hải ngoại như thế nào?
-Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên: Internet xuất hiện tại Việt Nam, với tôi như một giấc
mơ… rồi sau đó vớ được cái máy tính đời 2.0 hay 3.0 gì đó là chiếc phao cho người
sắp chìm dưới bùn đất: lập email, liên lạc với bạn bè; mày mò tìm kiếm có, bạn
gửi cho địa chỉ các trang mạng có. Giữa đám mây mênh mông kia, mọi thứ diễn ra
ngoài sự mong đợi, Tây Ta đủ bộ, có khi đọc quên bữa; gặp lại người viết cũ, mới…
Được một thời gian ngắn thì số lớn các trang (nước ngoài) bị chặn vì các trang
này bị cho là thế lực thù địch, tuyên truyền chống phá nhà nước… Lại phải khổ sở
vất vả cầu cứu cách trèo tường, y chang mấy nhóc hồi xưa trộm ổi, me chua….
Rồi có chiếc máy bay đánh sập hai tòa tháp ở
Nữu Ước ngày 11 Tháng Chín, 2001 khiến cả thế giới bàng hoàng, thì bất ngờ Phạm
Văn Nhàn, Trần Hoài Thư và chị Nguyễn Ngọc Yến (bà xã anh Thư), kẻ trước người
sau gọi thăm hỏi sau hơn 30 năm mất dấu! Khởi từ bữa đó, tôi bắt đầu gửi những
gì viết được cho tạp chí Thư Quán Bản Thảo và các tạp chí khác, từ tạp văn ba
trợn đến truyện, đến các tác giả miền Nam tôi yêu thích… kết nối được với các bạn
văn cũ, mới. Biết thêm các ông nhà văn miền Nam tha hương nhưng không đoạn trường,
cắt đứt dòng văn học 1954-1975, làm sống dậy những Văn, Văn Học, Khởi Hành, Văn
Nghệ, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21… trên đất khách. Đọc mà ứa nước mắt, bồi hồi nhớ lại
thuở vàng son của dòng văn học miền Nam bị thanh đao Bát Lê băm lìa oan nghiệt!
Những tờ báo (giấy) văn học lần lượt đình bản,
nhưng các trang mạng (văn học) thì vẫn hiên ngang tồn tại, có mòi ngày càng nhiều,
càng khởi sắc kiểu “bách hoa tề phóng xuân mãn viên” (trăm hoa đua nở xuân đầy
vườn), nên cũng cuốn theo, hăng say viết, gửi. Có trang còn dành độc quyền: bản
thảo gửi cho A làm ơn không gửi cho B hay các trang khác… Có khi Ban Biên Tập
thực hiện một chuyên đề nào đó thì hối thúc, cuống cuồng làm nhớ lại bầu không
khí mấy ông viết “feuilletons” cho các tờ nhựt trình ở Sài Gòn ngày nào: hối hả
phóng xe mang bản thảo giao cho các tòa soạn để kịp dàn trang, bỏ quên gói thuốc,
ly bia uống dở trên bàn!
Bài viết là những hữu thể có hình hài, tay
chân, mắt mũi, mập mạp ốm o đủ cả… Nhưng các trang mạng giúp nó sinh ra trên
các đám mây chỉ có thể dùng thị giác mà đọc chớ không rờ mó được, không ngửi được
mùi mực in, không thấy những chỗ bôi đen, đục trắng! Có điều, nhịp điệu sinh hoạt
văn nghệ đó diễn ra cũng nhộn nhịp, tưng bừng; cũng háo hức chờ đợi khi cuối
bài mở đóng ngoặc đơn còn tiếp, y chang như độc giả chờ ông Hàn Giang Nhạn dịch
từng kỳ truyện kiếm hiệp của Kim Dung ngày trước!
*
Trần Doãn Nho: Văn học hải ngoại, như thế, là sự “nối dài” hay
là sự “tái hiện” văn học miền Nam hay là một “nền” văn học hoàn toàn khác, theo
anh?
-Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên: Nội hàm của hai khái niệm này vừa giống nhưng cũng
có chút khác biệt. Nói rằng văn học hải ngoại là sự tái hiện của văn học miền
Nam không sai. Nhưng theo tôi, dòng văn học hải ngoại là sự TIẾP NỐI cho dòng
văn học miền Nam bị bức tử. Dòng văn học mới này, với sự sáng tạo đa chiều, đa
khuynh hướng, làm mới, cách tân cả nội dung lẫn hình thức, tiếp cận với văn học
Tây phương mà không đánh mất bản sắc Việt, tạo dựng một sinh hoạt phong phú từ
thơ, văn, hội họa, nghiên cứu phê bình…
Nhiều tác giả trẻ khi định cư ở nước ngoài chỉ
mới mươi, mười hai tuổi, cách biệt với bầu không khí đậm sắc màu Việt Nam, thậm
chí nói tiếng mẹ đẻ còn chưa sõi, nhưng bước vào thế giới văn chương, trong sự
phát triển chung, họ đã có cái riêng, viết nên những tác phẩm gây tiếng vang lớn
trên văn đàn thế giới. Đọc họ, ta không tìm thấy kiểu ông Tây bà Đầm viết văn
Việt, ngược lại vẫn phảng phất mùi khói đồng, cá kho… đó là trường hợp của Nguyễn
Thanh Việt, Ocean Vương, Linda Lê, Kim Thúy, Mai Ninh, Ninh Kiều… làm cho nền
văn học Việt Nam rực rỡ, bề thế hơn.
*
Trần Doãn Nho: Dựa theo các ý kiến anh đã phát biểu ở trên, có
thể tạm nêu lên mấy tính cách của văn học hải ngoại như sau: Tiếp nối và phục hồi
văn học miền Nam (54-75) là nền văn học bị nhà cầm quyền tìm cách tiêu diệt ở
trong nước; sáng tạo, cách tân văn chương cả nội dung lẫn hình thức, vừa tiếp
nhận văn học Tây phương vừa giữ gìn bản sắc Việt.
-Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên: “Tiếp nối” thì chính xác, bởi sinh hoạt này đa dạng,
đa chiều. Bất cứ nơi nào có cộng đồng người Việt cư trú là nơi đó có người viết,
có báo giấy, báo mạng thậm chí có cả nhà in, nhà xuất bản, phát thanh, truyền
hình… bùng nổ, rầm rộ như thập niên 60, 70 (thế kỷ 20) của Sài Gòn thủ đô văn
nghệ! Có phải đây là dòng máu di truyền của người Việt chăng? Vì, hiện tượng
này cũng khá giống với dân Do Thái thời Đệ Nhị Thế Chiến, với dòng máu tài
chánh ăn sâu vào tận huyết quản nên nơi nào có độ năm, bảy người Do Thái là nơi
đó có chuyện cho vay, mua bán đổi chác tiền tệ?
So sánh này quả là khập khiễng, nhưng để thấy
rằng người Việt mình mê văn chương hò hát đến cỡ nào? Những năm còn sống ở Nam
Bộ, tối tối tôi vẫn nghe các bà mẹ ru con bằng cách đọc thơ Lục Vân Tiên, Phạm
Công-Cúc Hoa, Thoại Khanh-Châu Tuấn cùng những điệu hò trải dài trên các kênh rạch…
Riêng khoảng phục dựng các di sản văn học miền
Nam tôi thấy chưa thật đồng đều, đa phần dưới dạng “flipbook,” đọc không mấy
thoải mái, như khi đọc “flipbook” Nam Phong tạp chí, Bách Khoa, tìm cho ra bài
cần đọc, trích dẫn vô cùng mất thời gian. Nhưng trước vụ “flipbook” thì Talawas
đã cho đánh máy và post lại hàng loạt tác phẩm văn học, các tư liệu quý của văn
học miền Nam, của thời Nhân Văn Giai Phẩm; rồi đến Trần Hoài Thư ngồi vá lại những
tác phẩm văn học, các tờ báo văn nghệ (Bách Khoa, Văn, Khởi Hành, Tình Thương,
Sáng Tạo, Giữ Thơm Quê Mẹ… bị (Việt Cộng) tiêu hủy thì đúng là kỳ công, như vị
cứu tinh cho độc giả và các nhà nghiên cứu! Một vài năm gần đây chưa thấy cá
nhân, tổ chức nào ta tay phục dựng lại các tác phẩm trước 1975 một cách bài bản?
Về sáng tạo, cách tân, tiếp nhận và gìn giữ,
ngoại trừ dòng thơ Tân Hình Thức tôi không tài nào bắt cái đầu mở ra những dây
thần kinh để hiểu và cảm xúc; còn lại đa phần các bộ môn khác mới mẻ hơn, hiện
đại hơn, đang tiến gần với điểm phát triển của văn học Tây phương. Ví dụ mới
đây tiểu thuyết “Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng đang làm “dậy sóng” cả trong và
ngoài nước. Khoảng gần 20 bài (tôi đọc được) viết về “Thuyền!” Chuyện gì đang xảy
ra vậy? À, thì ra là một câu chuyện kể về chuyến vượt biển; và chiếc thuyền như
nhân vật chính, mang theo bao nhiêu là cay đắng cuộc đời?
Câu chuyện phi tuyến tính; hiện tại và quá khứ
đan xen nhau, chính xác là hiện tại đang diễn ra luôn cõng quá khứ trên lưng
trong gần 370 trang giấy. Không có chương hồi, chỉ phân mảnh như những truyện
nhỏ ghép lại, liên kết với nhau bằng những cảm xúc lặn sâu dưới tầng đáy não bộ
để lắng nghe mùi hương, những thổn thức, những mất mát, sự cô đơn, dằn vặt, đau
xé cõi lòng… một cách lặng lẽ, không ồn ào; chữ tiếp chữ, câu tiếp câu như đường
bay của một bài thơ đẹp, như những bức tranh siêu thực.
Nguyễn Đức Tùng thành công ở chỗ xây dựng tác
phẩm mới lạ về cấu trúc, sắp xếp trật tự thành hình tháp ngược, càng xa càng rộng.
Rồi đến Kim Thúy với “Ru” hay Linda Lê với
“Vượt Sóng,” Ocean Vương với tiểu thuyết “On Earth We’re Briefly Gorgeous” (xuất
bản ở Việt Nam với tựa “Một Thoáng Ta Rực Rỡ Ở Nhân Gian”)… mỗi tác giả xây dựng
tác phẩm theo phong cách riêng, ngôn ngữ riêng, nhưng thảy đều toát ra hơi ấm của
văn hóa Việt trong từng chương, đoạn…
*
Trần Doãn Nho: Theo anh, “có thể nào” hay “có cần thiết không”
khi ta nói đến chuyện hai nửa rất khác biệt nhau của dòng văn học Việt Nam hiện
nay, “tự do” và “cung đình,” cùng nhập lại? Hay nói một cách khác, khi nào thì
dòng “cung đình” hết cung đình và dòng “tự do” được thong dong đi vào trong nước
một cách thoải mái?
-Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên: Một câu hỏi quá khó cho người được/bị hỏi, mà lẽ ra
nên hỏi cho các vị ở “Trên,” trên cả chủ tịch và ban chấp hành Hội Nhà Văn Việt
Nam nữa kìa? Họ luôn hô hào hòa giải hòa hợp, họ luôn yêu quý và mong ngóng
“khúc ruột ngàn dặm,” nhưng nhân tài ngày càng tìm đến chốn xa xôi để an trú,
thi thố sở học; bỏ lại phía sau một khoảng mênh mông cho các vị có học hàm học
vị cao ngất, nói giỏi làm dốt trong mọi lĩnh vực!
Trên hiện thực quá nhiều vị mặn và đắng chát
kia thì anh hỏi cái vụ “cùng nhập lại” như một giấc mơ có ngày được ôm thân thể
kiều diễm Hằng Nga trong vòng tay, đặt nụ hôn bỏng cháy trên đôi môi thơm ngọt
của nàng!
Tôi nhớ, không lầm, thì khoảng thập niên 1990
(thế kỷ 20), tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam có đi một số truyện,
thơ của các nhà văn thời danh miền Nam trước 1975 như bước mở đường cho sự hòa
nhập kia. Mười mấy năm sau, ông Hữu Thỉnh, được sự chỉ đạo của “Trên” mở một hội
nghị hòa hợp văn học tại Hà Nội, chủ yếu là mời các nhà văn Việt Nam ở nước
ngoài về dự. Anh Phan Nhật Nam đã phản hồi thư mời của ông Hữu Thỉnh với lời lẽ
rất “Mùa hè đỏ lửa.” Không ai về nước dự, chỉ lèo tèo vài ba ông và nhớ có một
vị viết “huyên thiên” về triết học, một vị khác – có một bài “đấu tố” cha mình
trên Văn Nghệ – lên đọc tham luận nhưng nhạt nhẽo, vô vị hơn nước ốc! “Hội nghị
hòa hợp dân tộc về văn học” (6 Tháng Tư, 2017) đã thất bại ngay từ trứng nước!
Anh hỏi “khi nào thì dòng ‘cung đình’ hết
cung đình và dòng ‘tự do’ được thong dong đi vào trong nước một cách thoải
mái?” Xin thẳng thắn thưa ngay rằng: Khi nào thực sự tự do theo đúng nghĩa, khi
nào nhân phẩm của con người được tôn trọng, khi nào “Đệ tứ quyền” không bị dán
băng keo và “Tam quyền” phân lập rạch ròi, dù cho thể chế có là cộng sản, cộng
hòa, xã hội hay dân chủ chi chi nữa… thì ngoài trong không còn là vấn đề mà, chỉ
có MỘT DÒNG VĂN HỌC VIỆT NAM DUY NHẤT. [qd]
----------------------
Nguyễn Lệ Uyên sinh trưởng ở Tuy Hòa, Phú
Yên, tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm Cần Thơ, nhập ngũ Khóa 6/70 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Ðức.
Trước năm 1975, ông viết trên các tạp chí văn
nghệ Sài Gòn như Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Thời Tập, Nhà Văn, Chính Văn, Ý Thức,
Tuổi Ngọc. Sau 1975, ông cộng tác với một số tạp chí văn học ở hải ngoại.
Đã xuất bản: Ba tập biên khảo (“Trò Chơi Dân
Gian,” “Truyền Thuyết Và Huyền Thoại,” “Bài Chòi”); hai tập nhận định văn học
(“Trang Sách” và “Những Giấc Mơ Bay” tập I – 2010, tập II – 2012, tập III –
2018; tập truyện (“Mưa Trên Sông ĐăkBla,” “Mùa Hè Sang Trọng,” “Sông Chảy Về
Núi,” “Chân Dung Tự Vẽ,” “Nguyệt Tận”); một truyện dài (“Nhật Ký Thằng Điên”).
No comments:
Post a Comment