Nguyễn Hoàng Văn
04/09/2025
https://baotiengdan.com/2025/09/04/cuong-quoc-co/
Đại lễ cuồn cuộn cờ tiếp nối cờ, như thác,
như lũ và đất nước lại bừng lên, phấp phới, như một… “cường quốc cờ”.
Thêm “cờ”, đất nước còn bừng ra như một “cường
quốc đủ thứ” với hàng loạt danh vị khác nhau, “nghị quyết”, “hoa hậu”, “thơ” rồi
“hội nghị thành công tốt đẹp”, “tiến sĩ”, “cao cấp lý luận chính trị” v.v… Hay
thì cũng thực là hay nhưng, thực chất, lại là kiểu “cường quốc” chẳng giống ai,
chẳng ai mong muốn và, do đó, chẳng hề cho công dân mình cơ hội ưỡn ngực, ngửng
đầu.
Nếu danh vị nào cũng có tuồng tích riêng của
nó thì cái sự “chẳng giống ai” lại là một mẫu số chung ở ý nghĩa châm biếm, mỉa
mai, như “cường quốc nghị quyết” chẳng hạn.
Nếu sự tích là câu chuyện tiếu lâm thế sự vào
thời ông Lê Duẩn thì dư vị để lại cả một nỗi niềm chung, hầu như cho toàn xã hội,
“Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”. Có tích mới dịch ra tuồng và tuồng
tích ở đây được khai mở theo một đại hội – than ôi, lại… đại hội – của Comecon,
khối kinh tế xã hội chủ nghĩa. Comecon bàn cách đột phá kinh tế, qua mặt khối
tư bản và kết luận rằng cần phải chuyên môn hóa tối đa để, một khi từng thành
viên khai thác đến mức tối ưu sở trường của mình, toàn khối sẽ vươn lên… “vượt
mức kế hoạch”.
Nhưng nếu nước nào cũng có ưu thế riêng của
mình, Nga có kỹ nghệ nặng và dầu lửa, Ukraine có lúa mì, Mông Cổ có thịt và sữa,
Cuba có đường và cigar v.v… thì Việt Nam có gì? Là một nước nông nghiệp, với cả
một đồng bằng phì nhiêu ở Nam bộ mà chỉ việc trồng lúa thôi cũng không xong,
cũng để cho dân đói, mà là đói quay đói quắt, còn có thể nói đến “thế mạnh” nào
khác?
Cả khối bàn cãi những mấy ngày trời tưởng là
bế tắc, hết nhăn trán nhíu mày thì lắc đầu bất lực, nhưng, cuối cùng, cũng lóe
lên chút ánh sáng cuối hầm. Đó là khi một đại biểu nhận xét rằng, không nơi đâu
“giàu nghị quyết” như Việt Nam và nếu đây là ưu thế, là sở trường, tại sao
Comecon không giao hẳn cho thành viên này đảm nhiệm công tác… sản xuất nghị quyết?
Cái cay đắng của danh vị “cường quốc” này là ở
đó, là những “nghị quyết” ê hề nhưng chẳng thể nào nhét vào bao tử thay cơm,
càng không thể xuất khẩu kiếm ngoại tệ hay đổi chác máy móc, thuốc men. Và nếu
thời ấy, thời “bao cấp”, là thời của “ba dòng thác cách mạng” trong cách diễn
giải nghị sự chính trị quốc tế thì, trên khía cạnh nghị sự quốc gia, đó là cả một
“dòng thác nghị quyết” mà, đến tận hôm nay, vẫn ồ ạt tuôn trào. Cứ như vậy,
theo từng dòng thác song song – “hoa hậu”, “hội nghị thành công tốt đẹp” hay
“tiến sĩ” v.v… – những danh vị cường quốc hữu danh vô thực lại thi nhau hình
thành trong khi đất nước thì vẫn lẹt đẹt tụt hậu với những sự thể mỉa mai, cười
ra nước mắt.
Như cái cười trước bộ máy công quyền mà nhìn
theo bằng cấp, có học thức cao nhất hành tinh này, cao hơn bất cứ cường quốc
nào, kể cả khối Thất Cường (G7). Đã hơn với tỷ lệ quan chức có bằng cấp cao nhất,
“cường quốc tiến sĩ” của chúng ta ngạo nghễ với loại văn bằng mà có lẽ không
nơi nào có, như một “cường quốc cao cấp lý luận chính trị”.
Nhưng có say sưa với đỉnh cao hay sự độc đáo ấy
đến đâu thì cũng đến lúc phải xìu xuống bởi cái sự thể “chẳng giống ai”, như tổ
tiên từng chế nhạo:
Anh hùng là anh hùng rơm
Cho một bó đuốc, hết cơn anh hùng
Nếu chúng ta, trước những anh hùng rơm vênh
váo khi lâm cảnh phải… đuốc, có thể bật cười sảng khoái thì, trước những chức
quyền đầy bằng cấp lúc thò đuôi chuột về học thức, lại khó mà có một cái cười
trọn vẹn bởi, thấp thoáng sau đó, lại là vận mệnh chung của đất nước, là số phận
của từng con người trong sự định đoạt của chính hạng người đó.
Chúng ta cười như khóc với một Thứ trưởng Ngoại
giao, thạc sĩ ngoại giao kiêm cao cấp lý luận chính trị, nhưng ngây ngô đến mức
không hiểu thế nào… hối lộ. Chúng ta cười như đau trước một ông phó tỉnh, tiến
sĩ luật kiêm “cao cấp lý luận chính trị”, mà khờ khạo đến độ tin rằng, nếu, tiền
đút lót mà không rút từ ngân sách, thì không phải là hối lộ [1].
Và bây giờ là dòng thác cờ của đại lễ, mà xét
ra cũng chẳng mới mẻ gì. Đó là một lịch sử lâu dài, như lễ mừng chiến thắng với
cảnh duyệt binh ở Hà Nội, sau Hiệp định Paris vào đầu năm 1973, theo ghi chép của
nhà phê bình Vương Trí Nhàn:
“Tiếp tục ra các khu xa trung tâm. An
Dương, màu đỏ lá cờ nổi lên trên màu đỏ của gạch ngói bị vỡ. Và bây giờ tôi mới
hiểu ý nghĩa của màu đỏ mà chúng ta thường thấy. Em trai tôi kể: Qua Yên Viên,
không còn nhận ra gì cả, chỉ thấy cờ đỏ. Cờ đỏ ở trên cây. Cờ đỏ ở một ít nhà
còn sót lại” [2].
“Không còn nhận ra gì cả, chỉ thấy cờ đỏ”,
cái thời tem phiếu thiếu thốn, phải vá chằng vá đụp mà đã ra dáng… cường quốc cờ
rồi thì nói gì là hôm nay? Vậy nhưng, nếu sống lại, chứng kiến cái cảnh “cường
quốc cờ” trong khi giang sơn teo tóp, quá khiêm cung so với thời của mình, những
thế hệ trước như Minh Mạng sẽ nghĩ như thế nào?
Vị vua được xem là “minh mẫn, hiếu học
lại hay làm, phàm có việc gì cũng xem xét đến, và phải có châu phê rồi mới được
thi hành”, khi tìm hiểu binh chế Tây phương để cải tổ quân đội, đã nhận ra
sự bất cập của tình trạng “nhiều cờ”: [3]
“Binh chế của triều đại ta, mỗi vệ có 10 đội,
mỗi đội có 50 người; mỗi đội có 20 khẩu súng dài, 20 khẩu súng điểu sang và 4
cán cờ. Thế là một vệ 500 người, mà có đến 40 người cầm cờ. Xem binh chế của
Tây dương, 2000 người chỉ có 2 lá cờ; binh chế nhà Thanh, cũng 1 vệ chỉ có 4 lá
cờ, chứ chưa có nước nào nhiều cờ đến như thế! Súng để bắn, giáo để đâm, đều cần
thiết trong việc dụng binh, còn cờ chỉ để chỉ huy lúc lui, lúc tiến, nhiều có
ích gì! Bộ binh ngươi nên ghi nhớ: mỗi đội chỉ cấp cho 2 cờ thôi, còn thì đều cấp
cho khí giới mới được” [4].
Minh Mạng đã mở rộng lãnh thổ đến mức cao nhất
trong lịch sử nước nhà, thu tóm cả Ai Lao và Chân Lạp, và vấn đề ở đây, không
phải là đề cao tinh thần bành trướng hay thực dân mà để nhấn mạnh rằng, đất nước
có mạnh, có vươn tới địa vị “cường quốc” của khu vực, thì mới có thể thực hiện
được những điều như thế. Mà qua một việc làm như thế, phải chăng, Minh Mạng còn
chứng tỏ được mối tương quan nghịch chiều giữa sức mạnh đất nước và cờ? Càng ít
khoe cờ, càng ít màu mè lòe loẹt với cờ, đất nước sẽ càng mạnh hơn? Và, suy rộng
ra thì, càng là cường quốc, càng cần phải tiết chế việc phung phí tài nguyên
cho những màn phô trương chỉ để sướng mắt, chỉ trong mấy tiếng đồng hồ?
Trong cái nhìn này thì, cơ hồ, không ít bậc
lãnh đạo quốc gia của chúng ta lại là những kẻ không chịu đọc, đừng nói là chịu
học. Dân của một nước thì phải học lịch sử nước nhà, tất nhiên, nhưng bậc lãnh
đạo quốc gia thì càng phải nghiền ngẫm cho kỹ những bài học về sự suy vong, đặc
biệt là cái thời sắp sửa mất nước. Vì không học mà chẳng đọc nên, khi còn là Chủ
tịch nước, vào bốn năm trước, ông Nguyễn Xuân Phúc mới làm phiền ngư dân khi
trao tặng một loạt năm ngàn lá cờ? [5]
Đây không phải là chuyện bốc đồng, là cơn hứng
bất tử của nhà lãnh đạo chưa bao giờ thể hiện phẩm cách “việc gì cũng xem xét đến”.
Ông ta có tặng thì, chẳng qua là để hưởng ứng “Phong trào ‘Một triệu lá cờ Tổ
quốc cùng ngư dân bám biển’,” mà báo Người Lao Động đề xướng từ năm 2019. Và
như thế thì tờ báo này, toàn ban, từ trên xuống dưới, cũng không học và chẳng đọc,
càng không thể hiện phẩm cách “việc gì cũng xem xét đến”, ngay với những ngư
dân mà họ cố bày tỏ sự quan tâm.
Những ngư dân có ra khơi thì, trước hết, là để
mưu sinh và, qua đó góp phần khẳng định chủ quyền của đất nước trên những vùng
biển bị tranh chấp. Và khi làm như vậy thì họ phải chường mặt ra trước bao
nhiêu là mối nguy và đe dọa, từ những tàu hải cảnh Trung Quốc hung dữ, từ những
ngư dân kiêm cướp biển Trung Quốc, cũng không kém phần hung dữ. Như thế, điều
mà những ngư dân ấy thực sự cần là một sự bảo đảm về an ninh qua sự hiện diện của
hải quân hay biên phòng, qua sự sự trang bị vũ khí để gia tăng sự tự tin và,
trong trường hợp cần thiết, có thể răn đe hay tự vệ.
Và, trước những may rủi rình rập, họ còn cần
bao nhiêu sự giúp đỡ thiết thực khác về vật chất, từ sự tài trợ về nhiên liệu
hay thiết bị, sự ưu đãi tín dụng hay thuế khóa, rồi những khoản bảo hiểm phòng
khi bị nạn cho họ, cho cả vợ con v.v… Tuy nhiên họ hầu như chẳng thấy gì cả
ngoài… cờ. Không hẳn là 100% nhưng, những quà tặng này, cũng từa tựa như thứ
bùa chú mà những pháp sư Nghĩa Hòa Đoàn màu mè ban cho những võ sĩ của mình trước
giờ xung trận, với ảo tưởng rằng sẽ giúp họ vô sự trước súng đạn.
Nghĩa Hòa Đoàn ra đời ở Trung Quốc vào đầu thế
kỷ 20 và nếu những võ sĩ của nó tỉnh cơn mê ngay từ những phát súng đầu tiên với
cái giá bằng máu thì, bây giờ, giữa thập niên 20 của thế kỷ 21, trên đất nước
chúng ta, vẫn có chuyện màu mè tương tự, với cờ.
Mà sự màu mè này, như đã thấy, cũng chẳng hay
ho gì trong mối tương quan nghịch chiều như vua Minh Mạng đã bộc lộ. Xa hơn, chỉ
ôn lại những bài học lịch sử căn bản nhất, cũng thấy được rằng sức mạnh hay
năng lực sinh tồn của một quốc gia hay một thể chế không hẳn nằm ở mấy màn phô
trương nhất thời, qua những “đại lễ” nhất thời, với độ thẳng tắp hay rập ràng của
những đội duyệt binh, với độ phấp phới của những hàng cờ.
Có quân đội nào duyệt binh oai vệ và đẹp đẽ
như Đức Quốc Xã nhưng kết cuộc của nó thì ai cũng biết rồi. Mà nếu đó là chuyện
xưa thì, thời này, nếu không kể những năm sa lầy vì cuộc chiến Ukraine, có năm
nào mà quân Nga không rầm rộ duyệt binh, cực kỳ hùng dũng, cực kỳ hoành tráng?
[6]
Nhưng càng rập ràng đẹp mắt trên Hồng trường
bao nhiêu thì, trên trận địa Ukraine, quân Nga càng ì ạch, rời rạc và, thậm
chí, càng hỗn loạn bấy nhiêu. Càng oai phong trong trình diễn thì, trong tác
chiến và sinh hoạt tại thực địa chiến trường, càng xấu xí, nhếch nhác và bẩn thỉu.
Bẩn và nhếch nhác đến độ, khi rút quân hay khi tháo chạy, quân Nga luôn luôn
khiến đối thủ tởm lợm đến phát ói với những bãi phân bắc nồng nặc mùi quanh nơi
đồn trú [7].
Cũng giống như một đội quân, năng lực sinh tồn
của một quốc gia biểu lộ ở những khía cạnh nhỏ nhặt và tự nhiên nhất chứ không
hẳn là những màn trình diễn đã đầu tư bao nhiên công sức, tài nguyên. Là cách họ
cách ứng xử với vật thải của mình, với môi trường mình đang sống, với mối giao
tế cộng đồng xã hội mà mình là một thành viên. Và trên khía cạnh này thì, cứ mỗi
lần “đại lễ”, là mỗi lần mà bất cứ người Việt tử tế nào cũng phải đau đớn với
câu hỏi là, từ bao giờ, người Việt lại tệ hại đến thế? [8]
Có tệ hại đến như vậy thì mới có cái điệp
khúc cờ phấp phới trên đầu mà rác thì lổn nhổn dưới chân theo từng đại lễ và,
đây đó, luôn luôn, là những luống hoa công cộng tả tơi như một cuộc bể dâu. Rồi,
cũng luôn luôn là nạn chen lấn, xí chỗ, những hành vi thô bạo, vô văn hóa mà,
theo một nhân chứng, là “sẵn sàng đánh nhau để được xem duyệt binh” [9].
Nếu nhìn lên, chúng ta có thể tự trào về một
“cường quốc cờ” thì, khi nhìn xuống chúng ta có thể nào đau đớn tự phán về một
“cường quốc rác”, “cường quốc chen lấn” hay, khái quát hơn, là một “cường quốc
vô văn hóa”?
Đó, tất nhiên, là những danh vị bất bình thường
nhưng cần nhớ rằng những gì mà rất đông người Việt chúng ta cho là “bình thường”,
như xả rác hay xô xát để giành chỗ xem duyệt binh v.v… lại hoàn toàn “bất bình
thường” trong những xã hội văn minh. Nói theo Michel Foucault thì cách biệt nằm
ngay ở mối cân bằng của những cặp giá trị “bình thường – bất bình thường” của từng
xã hội, cộng đồng hay thể chế để góp phần hình thành nên đặc tính và diễn ngôn
của nó. Như thế, trong mối cân bằng này, phải chăng, cũng tồn tại một tương
quan nào đó giữa rác và cờ?
Trước một câu hỏi như thế thì, nhất định, một
lần nữa, chúng ta phải quay về với lịch sử, từ vua Minh Mạng. Ngót nghét hai thế
kỷ trước, khi nhận ra nạn “nhiều cờ” trong việc binh thì, trên phương diện xã hội,
vị vua “việc gì cũng xem xét đến” này còn quan tâm đến rác, nhưng là thứ rác
phi vật thể trong mỗi con người, khi công bố “Thập điều” vào năm 1835 nhằm giáo
huấn người dân. Ngay từ điều thứ hai, “Chính tâm thuật”, Minh Mạng đã nhấn mạnh
là “Làm việc gì cũng cốt phải giữ bụng dạ cho chính đáng trong sạch”.
Bớt cờ trong quân đội, dọn sạch rác trong bụng
dạ con người, vị vua này đã xây dựng đất nước thành một cường quốc của khu vực
thì, bây giờ, phải chăng, mối cân bằng đã đổi? Ngày hôm nay chúng ta có rất nhiều
cờ ở trên đầu trong khi, bụng dạ thì tồn đọng bao nhiêu là rác và, nếu là “cường
quốc”, thì chỉ mỉa mai như một “cường quốc cờ”.
Rõ ràng là bụng dạ có ô nhiễm với những rác
rưởi phi vật thể nào đó thì chúng ta mới vô cùng xấu xí để, nhìn lên thì thấy cờ
mà nhìn xuống chân thì thấy rác, còn nhìn ngang dọc thì thấy cảnh chen lấn, chửi
thề và xô xát, đánh nhau, chỉ để được xem đại lễ…
_________
Chú thích:
1. Tô Anh Dũng (Thứ trưởng Ngoại giao): “Khi
nhận tiền, bị cáo không nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật”.
Trần Văn Tân (Phó Chủ tịch Quảng Nam): “Bị cáo nhận thức rằng đây là tiền doanh
nghiệp, không phải tiền ngân sách nên bị cáo nhận”.
https://vietnamnet.vn/vu-chuyen-bay-giai-cuu-loi-khai-cua-cuu-thu-truong-to-anh-dung-2164689.html
https://vietnamnet.vn/phien-toa-chuyen-bay-giai-cuu-lam-lo-goc-khuat-cua-nhieu-nguoi-2165760.html
2. https://www.viet-studies.net/kinhte/VuongTriNhan_NgayDoiHoaBinhDautien.html
3. Ghi nhận của Trần Trọng Kim trong Việt
Nam Sử Lược, Chương II của phần “Nhà Nguyễn”, viết về Minh Mạng, mang tên
“Thánh Tổ (1820 -1840) – Niên hiệu: Minh Mạng”: “Vua Thánh Tổ là một ông vua
có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại lại hay làm, phàm có việc gì cũng
xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành”.
4. Dẫn theo Nguyễn Trọng Minh, “Triều Nguyễn
với việc tiếp thu tri thức, áp dụng kĩ thuật quân sự phương Tây giai đoạn
1802-1858”: https://thanhdiavietnamhoc.com/trieu-nguyen-voi-viec-tiep-thu-tri-thuc-ap-dung-ki-thuat-quan-su-phuong-tay-giai-doan-1802-1858/
6. https://vanviet.info/van-de-hom-nay/duyet-binh-ma-my-hoi-h/
7. https://www.businessinsider.com/russia-army-leaves-squalor-poop-in-occupied-homes-fled-sky-2022-10
Và: https://www.yahoo.com/news/russian-forces-left-piles-excrement-235454810.html
9. Hoàng Quốc Dũng: “Một cảnh tượng khác hẳn
– vừa thô vừa lố, vừa buồn cười vừa đáng sợ. Cứ mỗi mùa “duyệt binh”, người ta
không chỉ xem, mà sẵn sàng đánh nhau để được xem. Đám đông như phát cuồng, trải
chiếu chờ vài ngày, xếp hàng đi ỉa dài như rắn bò, thuê dịch vụ dắt đi đái, dắt
đi… “giải quyết nhu cầu”.
Đường phố biến thành chợ người, với đủ thứ dịch
vụ ăn theo – bán chỗ đứng, bán ghế nhựa… Người ta không chỉ chen chúc mà còn chửi
bới, xô đẩy, đánh nhau, giữa đám đông có cả trẻ con, người già, thỉnh thoảng ngất
xỉu. Nếu ngày xưa duyệt binh là một nghi lễ trang trọng, thì nay nó giống một lễ
hội phồn thực méo mó, nơi hàng vạn người đi tìm một thứ gì đó để khỏa lấp sự trống
rỗng của chính mình”.
Duyệt binh ngày xưa và ngày nay: Một tấm
gương phản chiếu cả dân tộc:
Duyệt
binh ngày xưa và ngày nay: Một tấm gương phản chiếu cả dân tộc | Tiếng Dân
No comments:
Post a Comment