Bức tranh tư tưởng
Trung Quốc qua những nét phác thảo của một học giả gốc Hoa
Lam Thái Hòa - Luật
Khoa
Jul 18, 2023 8:11 PM
Ở ngã rẽ lịch
sử, Trung Quốc phải giải quyết câu chuyện giữ gìn hay vứt bỏ truyền thống.
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w2000/format/webp/2023/07/LSTTTQ.jpg
Ảnh bìa sách: Omega Plus. Đồ họa: Luật Khoa.
*
Nếu ở thời trung đại, các học giả Trung Quốc truyền thống gần như độc quyền
thống trị không gian và tư liệu học thuật thì bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX đến những
năm 1980, các học giả Âu - Mỹ - Nhật bắt đầu nổi lên với cách tiếp cận mới, tư
duy quan sát mới, đặt Hán học vào vị thế một “tha thể” (the Other - cái khác
mình). Họ dần chiếm giữ vị trí học thuật tiên phong, xác lập những trường phái
Hán học phương Tây, thậm chí tạo nên khuôn mẫu tham khảo cho nền Hán học đại lục,
vốn chịu khủng hoảng dưới thời Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976).
Đặc biệt, quá trình này chứng kiến sự xuất hiện của các nhà Hán học gốc
Hoa nhưng sinh trưởng hoàn toàn trong môi trường xã hội và học thuật Âu - Mỹ. Họ
mang cả lợi thế về xuất thân (ít nhiều liên quan đến Trung Quốc) lẫn nền tảng
tư duy khoa học phương Tây.
Một trong số đó có thể kể đến Anne Cheng (Trình Ngải Lam). Bà là giáo sư
Hán học giảng dạy tại Collège de France, đồng thời cũng là một trong những
chuyên gia hàng đầu của Pháp trong lĩnh vực lịch sử, triết học và tư tưởng
Trung Quốc.
Bà từng chia sẻ rằng: “Được sinh thành và giáo dưỡng ở Pháp, nhưng có tổ
tiên người Trung Quốc, cá nhân tôi muốn nêu vấn đề từ cả hai quan điểm châu Âu
và Trung Quốc.”
Tác phẩm tiêu biểu Lịch sử tư tưởng Trung Quốc (tên tiếng Pháp là
Histoire de la pensée chinoise) được bà viết năm 1997, theo hướng tiếp cận từ
cách nhìn chỉnh thể hay còn gọi là “thông sử” (lịch sử xuyên suốt từ xưa đến
nay).
Đặc
trưng của tư tưởng Trung Quốc
Cuốn sách có sáu phần, 22 chương, đi từ nền tảng cổ đại của tư tưởng
Trung Quốc đến sự hình thành của tư tưởng cận hiện đại sau thời Mãn Thanh. Thông
qua đó, tác giả nêu bật những trăn trở khi chứng kiến tư tưởng Trung Quốc va chạm
với văn minh phương Tây, dẫn đến những đổ vỡ, hụt hẫng. Trong quá trình định
hình một nền tảng tư tưởng hiện đại, Trung Quốc vẫn đang đứng ở ngã ba đường.
Cách phân chia tác phẩm có tính khái quát hóa cao, tránh cho độc giả bị
phân tán vào các thông tin thuộc về niên đại hoặc sự kiện lịch sử thuần túy.
Ngoài ra, các chân dung nhà tư tưởng, chủ đề tư tưởng, khái niệm, trào lưu, trước
tác quan trọng, v.v. có cơ hội được nhấn mạnh, tái hiện rõ nét, phản ánh mối
quan hệ biện chứng và tuyến tính với nhau nhờ lợi thế trình bày theo dòng chảy
lịch sử của các triều đại.
Tác phẩm không quá đồ sộ nhưng là một công trình nghiên cứu chứa đựng những
đóng góp giá trị từ bên ngoài Trung Quốc về lịch sử tư tưởng của quốc gia này,
trong khi nền văn minh Trung Hoa vốn có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước ở khu
vực châu Á và các diễn ngôn về tư tưởng hiện đại tại Trung Quốc chịu sự chi phối
bởi một chế độ chuyên chế.
Trung Quốc là nền văn minh thư tịch lớn nhưng chưa được thế giới phương
Tây quan tâm và khảo cứu đúng mực. Mặc dù vậy, nó vẫn không ngừng khơi gợi trí
tò mò, óc khám phá ngay từ thời điểm các nhà truyền giáo đặt chân đến đây vào
thế kỷ XVI cho đến tận ngày nay.
Chính vì vậy, tác giả mong muốn “xây dựng một nền tảng nhận thức chân
chính dựa trên sự tôn trọng cái công bằng, chính trực về tư tưởng chứ không phải
dựa vào một hình tượng Trung Quốc biến dạng [...]”. Có thể nói, cảm hứng viết
nên quyển sách bắt nguồn từ “tinh thần phê phán lẫn thấu cảm”, dưới góc độ quan
sát của người trong cuộc lẫn ngoài cuộc.
Xuyên suốt nội dung tác phẩm, tác giả luôn để ngỏ một khả năng tranh luận
về việc tư tưởng Trung Quốc liệu có tồn tại như một dạng “tiền triết học”? Bởi
lẽ, trước tác của các nhà tư tưởng vốn không đồng nhất, rất khó tách bạch văn -
sử - triết - tôn giáo - khoa học.
Theo tác giả, tư tưởng Trung Quốc xưa nay không cảm thấy việc giải thích
vấn đề, tôn chỉ, đối tượng là quan trọng, vì nó không hứng thú với việc khám
phá chân lý theo nghĩa lý thuyết. Điều này cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách thức
giáo dục.
Để lý giải đặc trưng nói trên, có thể viện dẫn sự khác biệt giữa chữ Hán
và ngữ hệ biểu âm châu Âu. Bản thân các ký tự tượng hình chữ Hán đã hàm chứa thứ
“sức mạnh thần bí”. Cho nên, không giống như truyền thống thiết lập khái niệm của
triết học Hy Lạp, các nhà tư tưởng Trung Quốc theo đuổi lối chiết tự, lấy văn tự
làm gốc. Ví dụ, chữ Tính được ghép bởi hai bộ thủ là Tâm và Sinh. Chữ - vật
dung hòa với nhau tựa như tri - hành hợp nhất là nền tảng của Đạo. Tư tưởng
Trung Quốc, vì thế, hoàn toàn đắm mình vào thực tế, lý (lý thuyết) không
hề tách rời thế (đời sống).
Cuồn
cuộn chảy theo dòng lịch sử
Từ thời thượng cổ Trung Hoa được đánh dấu bởi ba triều đại Hạ - Thương -
Chu, người Trung Quốc đã viết văn tự chiêm bốc (hình thức bói toán sơ khai hợp
thành Kinh Dịch sau này) lên xương thú và mai rùa. Chiêm bốc gắn kết chặt chẽ với
nghi lễ tế tổ cuối đời Thương.
Bước sang triều Chu, yếu tố “đế” (thần linh tối cao) dần được thay thế bằng
“thiên” (trời). Trật tự mới này do tân triều thiết lập mang ý đồ đồng nhất
“thiên” với bậc quân vương (bất luận quan hệ huyết thống), và “đế ý” dần chuyển
thành “thiên mệnh”, biểu đạt cho việc nhà Chu lật đổ nhà Thương vì vua Thương
không còn xứng đáng nắm giữ “thiên mệnh”. Từ đây, quan niệm “thiên mệnh” chi phối
mọi lý luận chính trị của Trung Quốc.
Đến thế kỷ VIII TCN, nhà Chu suy yếu, các chư hầu chia năm xẻ bảy, mở ra
cục diện loạn lạc Xuân Thu - Chiến Quốc. Lúc này, Khổng Tử và tư tưởng mới của ông
nổi lên như một bước “nhảy vọt về chất”, đánh dấu sự đột phá của triết học
Trung Quốc và tạo ra một nền văn hóa kinh viện. Việc chủ thuyết về cách giữ gìn
rường mối thiên hạ, đề cao các phẩm chất của quân vương, của người quân tử, của
một trật tự chính danh, v.v. đã đưa Khổng Tử sánh ngang với Phật Thích Ca,
Socrate, Chúa Jesus.
Thời này không chỉ có riêng Khổng Tử đề thuyết, “bách gia” (Mặc gia, Đạo
gia, Pháp gia, v.v.) cũng đua nhau xuất hiện và đều hy vọng xác lập nên học
thuyết lẫn kinh điển cho trường phái của mình, tạo thành hiện tượng “bách gia
tranh minh”. Trong đó, có người tiếp tục truyền thừa và phát triển tư tưởng Khổng
Tử (Mạnh Tử, Tuân Tử), có người phản bác lại Nho gia (Mặc Tử), lại có người đề
xướng hệ tư tưởng mới (Lão Trang).
Tựu trung, thời Chiến Quốc (từ thế kỷ IV TCN đến thế kỷ III TCN) chứng kiến
nhiều khái niệm căn bản của tư tưởng Trung Quốc ra đời như “Đạo”, “Khí”, “Âm/
Dương”, v.v. Đặc biệt, những trào lưu tư tưởng - triết học đầu tiên của Trung
Quốc cổ đại bất luận là Nho, Mặc, v.v. đều có khuynh hướng đem phương pháp giải
thích của con người áp đặt lên giới tự nhiên nhằm xác lập giá trị. Tuy vậy,
phái Pháp gia lại được nhà Tần trọng dụng trong công cuộc gồm thâu lục quốc và
suốt giai đoạn ngắn ngủi cai trị thiên hạ.
Sau khi diệt Tần và thống nhất Trung Hoa, nhà Hán (206 TCN - 220) thiết lập
chế độ quân chủ kéo dài hơn 400 năm, tạo nền móng chính trị mang tính quyết định
cho lịch sử hơn 2000 năm tiếp nối.
Tư tưởng Hán triều rất ít sáng tân, phần lớn tiến hành chỉnh lý và thể chế
hóa các tư tưởng trước đó. Đổng Trọng Thư là nhân vật quan trọng góp phần xây dựng
lại hình thái ý thức hệ của chế độ quân chủ tập quyền, lấy vũ trụ luận làm nền
tảng, coi “trời” là “tổ của muôn vật”, đại diện cho vận hành tự nhiên, đạo đức
và trật tự chính trị. Đổng Trọng Thư đem quy tắc vũ trụ tăng cường cho trật tự
chính trị - xã hội theo chế độ đẳng cấp, “người thì theo vua, vua thì theo trời”.
Quyền lực chính trị vì vậy không chỉ mang tính thế tục hợp pháp mà còn gắn kết
với trật tự ngũ hành, phản ánh trong năm quan hệ nhân luân cơ bản (cha - con,
vua - tôi, vợ - chồng, anh - em, bạn bè). Tới thời Hán Vũ Đế, kinh điển Nho gia
được độc tôn, sách Lão Tử và Trang Tử bị loại khỏi chương trình giáo dục.
Đến thời Hán mạt, Phật giáo bắt đầu truyền bá mạnh mẽ vào Trung Hoa, tạo
nên “đại chấn động”. Giáo lý Phật môn khác xa so với những thảo luận về “tính
người” và sự phân chia đẳng cấp của Nho gia. Sự giáo hóa độc đáo của Phật giáo
nằm ở chủ trương giải thoát khổ đau, đây vừa là phương pháp trị liệu, vừa là
trí tụê.
Tác giả đặc biệt coi trọng vai trò của Phật giáo đối với lịch sử tư tưởng
Trung Quốc khi dành hẳn hai phần để viết về vấn đề này. Phật giáo nói chung lẫn
Phật giáo Nam truyền nói riêng đạt bước phát triển cực thịnh từ thời vua Lương
Vũ Đế (thế kỳ V) đến thời Tùy - Đường, với nhiều thành tựu về phát triển học
phái và lý luận, phiên dịch và truyền bá kinh điển, giao lưu văn hóa - tri thức.
Song song đó, Phật giáo từng bước trở nên Hán hóa.
Sang thời Tống (960 - 1279), tầng lớp quan lại mới xuất hiện mà số mệnh của
họ gắn liền với vận mệnh vương triều. Tầng lớp này lấy phẩm chất đạo đức Nho
gia làm nền tảng, dựa vào hệ thống khoa cử để tiến thân. Do vậy, Nho giáo bắt đầu
được phục hưng và phát triển thành các hình thái tư tưởng mới dưới sức ảnh hưởng
và biến tấu của các sĩ phu Tống Nho. Thêm vào đó, cuộc đối kháng học thuyết kéo
dài suốt đời Tống, gián đoạn ở thời Nguyên và tiếp diễn ở triều Minh đã không
ngừng tạo ra những giá trị tư tưởng triết học quan trọng. Ví dụ, phái Lý học của
Trình Di, phái Tâm học của Chu Hy và sự chỉnh lý của Vương Dương Minh.
Khi sự giao lưu với Âu Mỹ ngày một sâu sắc dưới thời nhà Thanh (1644 -
1912), niềm tin của người Trung Quốc vào quyền lực vô hạn của vương triều dần
lung lay, bên cạnh sự tự ý thức rằng quốc gia của họ không phải trung tâm của
thế giới. Điều này dẫn đến làn sóng tư tưởng canh tân diễn ra mạnh mẽ, đòi đổi
mới nhận thức về Kinh học Nho gia kết hợp với thực tiễn Pháp gia. Điển hình như
phong trào “tự cường” những năm 1860 trở đi (“tự cường” vốn xuất phát từ trong
Kinh Dịch), do các đại thần triều đình dẫn dắt, mong muốn tiếp thu rộng rãi kỹ
thuật Tây phương nhằm tăng cường sức mạnh quân sự và kinh tế. Tiếc thay, đây là
nhận thức muộn màng, Trung Quốc không còn là trung tâm văn minh hay chiếm ưu thế
về văn hóa - chính trị để đối lập với “Di” nữa. (“Di” là từ miệt thị phương Tây
hay dân tộc ngoại bang khác không phải Hán tộc)
Năm 1905, khoa cử ở Trung Quốc bị bãi bỏ, thế hệ trẻ tiếp thu nền giáo dục
hoàn toàn khác.
Sau khi lật đổ Mãn Thanh và chế độ hoàng triều, những người cộng sản đã
đánh bại Quốc Dân Đảng để phổ biến tư tưởng chính trị Mao Trạch Đông trên toàn
cõi Hoa lục. Trước sự kiện này, tác giả nhận xét rằng đây là “sự vay mượn hoàn
toàn từ mô hình Tây phương”. Bà giải thích thêm: “[...] mặc dù người ta vẫn nhấn
mạnh tinh thần Hán hóa trong tư tưởng Mao Trạch Đông (1893 - 1976) nhưng đó vẫn
là một thái độ quay lưng, thậm chí là vứt bỏ hoàn toàn truyền thống [...]”
Ở ngã rẽ lịch sử này, rõ ràng, Trung Quốc cần phải giải quyết câu chuyện
giữ gìn hay vứt bỏ truyền thống.
Trong lúc phương Tây dần thoát khỏi sự tự mãn về di sản Hy Lạp cổ đại và
Trung Quốc cũng cần nhìn nhận thế giới theo một cách khác thì đâu là điểm đối
thoại giữa hai bên?
Lịch sử Trung Quốc qua góc nhìn về lẽ hưng - suy của các
vương triều
Một lối diễn sử chân phương và độc đáo
Lam
Thái Hòa | Luật Khoa tạp chí
.
Bị kiểm duyệt: Gây phân tâm và đánh lạc hướng bên trong Vạn
lý Tường lửa của Trung Quốc
Bộ máy kiểm duyệt tinh vi bậc nhất của chính quyền độc tài kỹ thuật số.
Nguyễn
Quỳnh Thơ | Luật Khoa tạp chí
.
Con đường dân chủ ở Trung Quốc: Còn rất xa mới đạt được
điểm đột phá
Không có nhiều động lực để thay thế “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.
No comments:
Post a Comment