Thursday, June 22, 2023

CUỘC CHIẾN MÀ UKRAINE CÓ THỂ THẮNG (Gideon Rose / Foreign Affairs)

 



Cuộc chiến mà Ukraine có thể thắng (P1)

Gideon Rose  |  Foreign Affairs

Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch

20/06/2023

https://nghiencuuquocte.org/2023/06/20/cuoc-chien-ma-ukraine-co-the-thang-p1/

 

Tại sao phương Tây nên giúp Kyiv giành lại toàn bộ lãnh thổ?

 

Tháng 2/2022, Nga xâm lược Ukraine với ý định chiếm lãnh thổ và xóa bỏ nền độc lập mà người Ukraine đã giành được sau khi Liên Xô sụp đổ ba thập niên trước. Xét đến sự chênh lệch lớn về quy mô quân đội và sức mạnh giữa hai bên tham chiến, gần như chẳng ai nghĩ Ukraine sẽ có nhiều cơ hội. Những người bi quan cho rằng Kyiv sẽ thất thủ trong vài ngày hoặc vài tuần. Những người lạc quan hơn thì tin rằng quá trình đó mất vài tháng. Rất ít người nghĩ rằng Ukraine có thể đáp trả kẻ tấn công mình.

 

Một tháng sau khi cuộc xâm lược bắt đầu, hai chuyên gia về Nga, Thomas Graham và Rajan Menon, đã viết trên tạp chí Foreign Affairs, “Một chiến thắng mỹ mãn có lẽ nằm ngoài tầm với. Ukraine và những người ủng hộ phương Tây của họ không có khả năng đánh bại Nga với bất kỳ thời hạn nào.” Cùng lúc đó, nhà khoa học chính trị Samuel Charap đồng ý, “Tinh thần phản kháng dũng cảm của Ukraine – ngay cả khi được kết hợp với áp lực ngày càng lớn của phương Tây lên Moscow – vẫn khó có thể vượt qua các lợi thế quân sự của Nga, chứ chưa nói đến việc lật đổ Putin. Nếu không đạt được thỏa thuận với Điện Kremlin, kết quả tốt nhất có lẽ là một cuộc chiến lâu dài, gian khổ, mà đằng nào Nga cũng sẽ giành chiến thắng.” Ba tháng sau khi chiến tranh nổ ra, hai nhà sử học Liana Fix và Michael Kimmage lập luận rằng “một thất bại quân sự toàn diện của Nga trước quân đội Ukraine, bao gồm cả việc tái chiếm Crimea, gần như là điều viển vông.” Bốn tháng sau, nhà khoa học chính trị Emma Ashford đã nâng cấp chiến thắng của Ukraine thành một “tưởng tượng nguy hiểm”.

 

Tuy nhiên, giống như cách Nga khiến mọi người ngạc nhiên bởi thành tích quân sự kém cỏi, Ukraine cũng khiến mọi người ngạc nhiên khi phản kháng vượt xa sức mạnh của mình trong suốt cuộc xung đột. Nỗ lực chiếm thủ đô Kyiv của Nga đã bị cản trở, tiếp đến, những nỗ lực nhằm bảo vệ các lợi ích ở phía đông và phía nam Ukraine cũng bị gián đoạn. Quân đội Nga buộc phải rút khỏi Kharkiv và Kherson. Chiến dịch không kích tàn bạo của Nga nhắm vào cơ sở hạ tầng dân sự đã củng cố ý chí của người Ukraine thay vì bẻ gãy nó. Các cuộc tấn công gần đây của Nga ở Bakhmut và nhiều nơi khác chỉ mang về lợi ích ít ỏi, trong khi cái giá phải trả là quá đắt. Giờ đây, với việc lực lượng Nga đã yếu đi, Ukraine đang tiến hành một cuộc phản công để giành lại nhiều lãnh thổ hơn.

 

Quan điểm phổ biến về chiến tranh Ukraine xem nó là một bế tắc quân sự, chắc chắn sẽ kết thúc bằng một thoả thuận khác xa so với mục tiêu ban đầu của mỗi bên. Hồi tháng 4, Chủ tịch Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, Richard Haass, và nhà khoa học chính trị Charles Kupchan, lập luận rằng “Cuối năm nay, một bế tắc có thể sẽ xuất hiện dọc theo một chiến tuyến mới.” Và ở thời điểm đó, Ukraine nên nhận ra rằng “theo đuổi một chiến thắng quân sự hoàn toàn” sẽ là không khôn ngoan. “Một kết thúc mà trong đó Ukraine có toàn quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ được quốc tế công nhận… vẫn là một kết thúc rất khó xảy ra,” các nhà khoa học chính trị Samuel Charap và Miranda Priebe khẳng định vào tháng 1, và vì vậy, Washington “có thể đưa ra điều kiện viện trợ quân sự trong tương lai dựa trên cam kết tham gia đàm phán của Ukraine” đối với vấn đề thỏa hiệp lãnh thổ.

 

Đúng là có khả năng xuất hiện một khoảng thời gian tạm lắng sau đợt phản công sắp tới của Ukraine, khi Kyiv củng cố các vị trí đã chiếm được. Nhưng nó sẽ chỉ là một phút tạm dừng trong một cuộc xung đột vẫn còn tiếp diễn, chứ không phải một bế tắc. Đã, đang, và sẽ không cần có một thế bế tắc, nhờ vào các hỗ trợ quân sự của phương Tây và khả năng vượt trội của Ukraine trong việc biến hỗ trợ đó thành thắng lợi trên chiến trường. Thế giới chưa từng chứng kiến hợp tác chiến lược nào hiệu quả như vậy kể từ năm 1967 và 1973, khi Israel sử dụng sự trợ giúp của phương Tây để đạt được chiến thắng vang dội trước lực lượng Ả Rập vốn lớn hơn và còn được Liên Xô hỗ trợ. Nhờ hiệu quả của quan hệ đối tác phương Tây-Ukraine, không cần phải gây áp lực buộc Ukraine thỏa hiệp hòa bình. Thay vào đó, Mỹ và châu Âu nên cho phép Ukraine tiếp tục đẩy lùi lực lượng Nga ra khỏi các biên giới đã được quốc tế công nhận. Một kết thúc nguyên trạng thực sự cho cuộc chiến – đảo ngược hoàn toàn những lợi ích mà Nga đã đạt được kể từ cuộc xâm lược đầu tiên năm 2014 – không chỉ có thể xảy ra, mà còn là lựa chọn tốt nhất nên nhắm tới. Nó sẽ giúp giải phóng Ukraine. Nó sẽ thiết lập một nền tảng vững chắc cho an ninh khu vực. Nó sẽ chứng tỏ trật tự quốc tế tự do có cả tương lai lẫn quá khứ. Và nó sẽ cung cấp một mô hình chiến thắng cho lãnh đạo toàn cầu trong thời kỳ hậu bá quyền Mỹ.

 

 

UKRAINE CÓ THỂ THẮNG

 

Mục tiêu chính của các chính phủ phương Tây trong hơn một năm rưỡi qua là giúp Ukraine ngăn chặn thất bại. Mỹ, châu Âu, và các quốc gia thân thiện khác đã cung cấp một lượng lớn viện trợ kinh tế và vũ khí ngày càng mạnh cho Kyiv, những người đã sử dụng chúng để duy trì cuộc chiến. Tuy nhiên, để tránh khiêu khích Moscow, phương Tây đã giữ bí mật số lượng và tính chất của các hỗ trợ này. Họ tránh khả năng đụng độ trực tiếp giữa NATO và Nga, đồng thời tránh các cuộc tấn công trực tiếp vào nước Nga và chế độ Nga. Họ cũng lựa chọn cẩn thận các loại vũ khí được gửi đi, dần dần cung cấp một số nhưng không phải tất cả các vũ khí mà Ukraine yêu cầu.

 

Nguyên nhân của hành động này đơn giản là sự thận trọng, qua đó phản ánh các khía cạnh tiêu chuẩn của chiến tranh trong thời đại hạt nhân. Phương Tây đã hành động hợp lý khi chỉ can thiệp gián tiếp và hạn chế đối đầu trên chiến trường, và những hạn chế đó nên được duy trì, thậm chí nên thực thi nghiêm ngặt hơn, để ngăn chặn bất kỳ cuộc tấn công nào nữa vào Moscow. Nhưng khả năng đã được chứng minh của Ukraine trong việc sử dụng hiệu quả viện trợ quân sự đã khiến việc nới lỏng các hạn chế trên trở nên hợp lý, xét đến phần thưởng có thể thu được khi chấp nhận rủi ro tối thiểu. Như Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã chỉ ra cho cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger, khi ông quyết định cung cấp viện trợ quân sự cho Israel trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, “Nghe này, Henry, chúng ta sẽ bị đổ lỗi vì đã gửi 3 máy bay nhiều như khi chúng ta gửi 30, hoặc 100, hoặc bất cứ thứ gì chúng ta có. Vậy nên anh cứ gửi cho họ mọi thứ có thể bay được. Quan trọng là phải hiệu quả.”

 

Theo đó, thay vì hạn chế viện trợ quân sự thông thường cho Ukraine, Mỹ và châu Âu nên tăng cường viện trợ: gửi thêm xe thiết giáp, pháo binh, và đạn dược; cải thiện khả năng phòng không; cung cấp các phi đội máy bay tiêm kích thế hệ thứ tư – nghĩa là làm các việc thông thường, miễn là điều đó cần thiết. Một quyết định như vậy không chỉ là điều đúng đắn, mà còn là cách tốt nhất để kết thúc chiến tranh, hoặc bằng cách khơi dậy khả năng về một thoả thuận lâu dài, hoặc bằng cách cho phép các lực lượng của Kyiv giành được những vị trí mà họ có thể bảo vệ vô thời hạn nếu tiếp tục được hỗ trợ.

 

Nhiều người coi lựa chọn chính sách này là vô ích, nguy hiểm, hoặc gây phân tâm. Họ nói rằng Nga không thể bị đánh bại, bởi vì nước này luôn có nhiều nguồn lực hơn để tham chiến và còn có ý chí kiên quyết tránh thất bại. Nỗ lực buộc Nga lùi bước và tái chiếm Crimea có thể dẫn đến leo thang hạt nhân. Và việc tập trung vào Ukraine và Nga sẽ khiến chúng ta phải trả giá bằng những vấn đề khác, quan trọng hơn, chẳng hạn như Đài Loan và Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả những lo ngại này đều đang bị thổi phồng quá mức.

 

MỘT PHÉP THỬ Ý CHÍ

 

“Các vị đang ở đâu trong cuộc chiến?” tôi hỏi một quan chức quân sự cấp cao của Ukraine trong chuyến đi gần đây tới Ukraine, do tổ chức Sáng kiến Tái tạo Dân chủ tài trợ. “Cuối hiệp một,” ông đáp. Và sang hiệp thứ hai, họ thậm chí còn mạnh hơn.

 

Lúc đầu, viện trợ của phương Tây bị cắt giảm mạnh. “Chúng tôi đã hỏi, ‘Liệu chúng tôi có thể có Stinger không?’” Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine Oleksii Reznikov kể lại. “Họ bảo, ‘Không, hãy đào chiến hào và giết càng nhiều người Nga càng tốt trước khi cuộc chiến kết thúc.’ Mọi người nghĩ chiến thắng của chúng tôi là không thể.” Nhưng khi lực lượng Ukraine cầm cự và tiếp tục chiến đấu, Mỹ, châu Âu và những người bạn khác của Ukraine cuối cùng đã cung cấp một lượng lớn vũ khí tinh vi. Những chiếc Stinger đã đến, HIMARS, và cả những tên lửa Patriot mà tôi đã chứng kiến chúng bắn hạ tên lửa Kinzhal siêu thanh được cho là bất khả chiến bại của Nga. Hiện giờ, Reznikov cho biết, Ukraine có “Bradleys, Strykers, Abrams, Leopards, và nhiều hơn nữa.” Cuối cùng, kho vũ khí sẽ có cả F-16.

 

Trong đợt phản công lần này, các lữ đoàn mới, được trang bị tốt, có tinh thần chiến đấu cao của Ukraine đang đối đầu với lực lượng Nga mệt mỏi, tinh thần sa sút, không tận tâm, và chỉ có các lãnh đạo tầm thường. Giống như khi Ả Rập chiến đấu với Israel nửa thế kỷ trước, Nga có nhiều nhân lực và trang thiết bị hơn đối thủ, nhưng lại không sử dụng chúng cho tốt. “Nga có một bộ công cụ khổng lồ nhưng không biết sử dụng chúng một cách hiệu quả”, vị quan chức quân sự cấp cao của Ukraine nhận xét. “Không có gì đáng ngạc nhiên trong cuộc chiến của họ. Họ đang sử dụng cách tiếp cận cổ điển của Liên Xô; chẳng có gì thay đổi cả.” Người Nga cũng không có kế hoạch chiến lược. Sau thất bại ban đầu trong cuộc xâm lược, mọi thứ đều là ứng biến và các chỉ huy của Nga ngày càng mâu thuẫn với nhau. Các nguồn lực của Moscow đang bị hạn chế do chiến tranh tiêu hao và các biện pháp trừng phạt, và tại thời điểm này, lực lượng của họ không còn khả năng đạt được tiến bộ tấn công đáng kể. Người Ukraine sẽ phải đánh vào các công sự phức tạp, và người Nga có khả năng phòng thủ tốt hơn tấn công. Tuy nhiên, đợt phản công vẫn sẽ đạt được những thành tựu lớn và tiếp tục chuỗi thành tích của Ukraine trong việc thay đổi quan điểm của người ngoài về kết quả sau cùng của cuộc chiến. (Trước cuộc xung đột, tôi nằm trong số những người cho rằng sẽ hợp lý hơn nếu Ukraine cố gắng đạt được nguyên trạng trước năm 2022 thay vì năm 2014.)

 

Các quan chức ở Kyiv không tin rằng chỉ riêng chiến dịch lần này có thể giúp chấm dứt chiến tranh. Ngoại trưởng Dmytro Kuleba nói, “Mục tiêu của chúng tôi là đẩy người Nga hoàn toàn ra khỏi lãnh thổ Ukraine. Nếu chiến dịch này làm được điều đó, nó sẽ là đợt tấn công cuối cùng. Nếu không, sẽ có nhiều đợt khác nữa. Nếu nguồn cung cấp vũ khí của chúng tôi bị cắt đứt, Ukraine đơn giản sẽ chuyển sang chiến tranh cường độ thấp hơn. Chúng tôi sẽ không bỏ cuộc, chúng tôi sẽ không chấp nhận tổn thất lãnh thổ.” Vitali Klitschko, thị trưởng Kyiv và là cựu võ sĩ quyền anh hạng nặng thế giới, đã lặp lại quan điểm này. “Mục tiêu là các đường biên giới năm 1991, bao gồm cả Crimea. Có thể trong năm nay, có thể không. Chúng tôi có thể hy vọng, nhưng cần tiếp tục tiến lên. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi Nga bị tiêu diệt.” Giống như người Nga, người Ukraine coi cuộc chiến không chỉ là một phép thử vũ khí, mà còn là một phép thử ý chí, và người Ukraine tin rằng họ có lợi thế trong cả hai.

 

 

TRÒ BỊP HẠT NHÂN

 

Nhiều nhà quan sát lo lắng về những gì Tổng thống Nga Vladimir Putin có thể làm trước khi gặp thất bại, chẳng hạn như sử dụng vũ khí hạt nhân. “Một số nhà phân tích phương Tây gợi ý rằng Mỹ và NATO nên xem Điện Kremlin là kẻ bịp bợm – họ nên công khai ủng hộ người Ukraine và đẩy lính Nga ra khỏi Ukraine,” nhà khoa học chính trị Nina Tannenwald viết vào tháng 2, gọi đây là “cách tiếp cận đầy kiêu ngạo trước nguy cơ leo thang hạt nhân.” Bà tuyên bố, cách tiếp cận đúng đắn hơn là nhận ra rằng “bóng đen của vũ khí hạt nhân” hạn chế các lựa chọn của Ukraine, và có nghĩa là “một kết quả tốt cho Kyiv sẽ khó đạt được hơn và sẽ ít làm hài lòng mọi người hơn.” Charap và Priebe đồng tình, “Việc Nga sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc chiến này là có thể xảy ra” và cố gắng ngăn chặn nó phải là “ưu tiên hàng đầu của Mỹ.” Các học giả Rose McDermott, Reid Pauly, và Paul Slovi khẳng định rằng Putin quyết tâm chiến đấu đến cùng bằng bất cứ giá nào, và “ông là người mà nhân loại sẽ ước rằng đã tránh xa những vũ khí nguy hiểm nhất.”

 

Điều đó chắc chắn là đúng. Tuy nhiên, nhân loại đã sống sót cả khi thứ vũ khí đó nằm trong tay những kẻ tồi tệ và bất ổn hơn nhiều, từ nhà độc tài Liên Xô Joseph Stalin đến bạo chúa Trung Quốc Mao Trạch Đông, đến triều đại Kim tàn bạo ở Bắc Triều Tiên, và chẳng có lý do gì để tin rằng mô hình phi hạt nhân thời hậu 1945 sẽ thay đổi. Bản thân người Ukraine, những người sẽ hứng chịu hậu quả của bất kỳ cuộc tấn công hạt nhân nào, hiểu rõ tất cả những gì được cho là lằn ranh đỏ của Nga, nhưng họ ít lo ngại hơn đáng kể so với các đối tác Mỹ và châu Âu về việc vượt qua những lằn ranh ấy.

 

Quan chức quân sự cấp cao của Ukraine cho biết, “Về mặt chuyên môn, tôi buộc phải lo lắng về vũ khí hạt nhân. Nhưng tôi không nghĩ xác suất nó xảy ra là cao.” Về phần mình, Kuleba tin rằng “răn đe hạt nhân đã có hiệu quả trong quá khứ và nó sẽ tiếp tục như vậy.” Reznikov thậm chí còn thẳng thừng hơn, “Tôi biết rõ rằng đe dọa hạt nhân chỉ là trò bịp. Vũ khí của họ đã lỗi thời và Moscow không thể chắc chắn rằng chúng sẽ hoạt động. Trung Quốc và Ấn Độ đã bảo họ đừng sử dụng vũ khí hạt nhân. Cũng không có nơi nào để sử dụng chúng. Việc sử dụng vũ khi hạn nhân trên chiến trường sẽ gây tổn hại cho cả họ lẫn chúng tôi, và việc sử dụng chúng sẽ kích hoạt đòn trả đũa và chấm dứt mọi cơ hội đàm phán.”

 

Washington coi việc Nga không sử dụng vũ khí hạt nhân cho đến nay là một chiến thắng nhờ khả năng quản lý rủi ro của họ. Kyiv coi đó là sự xác nhận rằng nguy cơ là rất nhỏ. Người Ukraine đã gây ra hàng trăm nghìn thương vong cho lính Nga trong cuộc chiến và chính họ cũng chịu thiệt hại nặng gần như vậy. Họ không cho rằng Moscow đang giữ lại các lựa chọn quân sự hiệu quả, hoặc hạn chế sự tàn bạo của mình. Thứ họ nhìn thấy là một kẻ thù đang tuyệt vọng ném vào cuộc chiến bất cứ thứ gì mà nó nghĩ là sẽ hiệu quả. Theo quan điểm của Kyiv, xung đột vẫn diễn ra theo quy ước thông thường vì vũ khí hạt nhân không phải là công cụ chiến tranh đặc biệt hữu ích, nhất là trong giao tranh cận chiến nhằm tranh giành lãnh thổ với nước láng giềng và giải cứu các cộng đồng thân thiện như lời Moscow. Điều đó sẽ không thay đổi chỉ vì những thành công quân sự thông thường của Kyiv. Và ngay cả khi Moscow hiện thực hoá mối đe dọa hạt nhân, xu hướng của cuộc chiến cũng không nhất thiết đảo ngược và dẫn đến thắng lợi cho người Nga.

 

Tóm lại, người Ukraine nhận thấy có một khoảng cách giữa thực tế khách quan của quân đội Nga và sự thừa nhận của Điện Kremlin. Những tháng chiến đấu tiếp theo sẽ thu hẹp khoảng cách đó, và sau đó tình hình sẽ trở nên thú vị.

 

(Còn tiếp một phần)

 

                                                         ***

 

Cuộc chiến mà Ukraine có thể thắng (P2)

Gideon Rose  |  Foreign Affairs

Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch

21/06/2023

https://nghiencuuquocte.org/2023/06/21/cuoc-chien-ma-ukraine-co-the-thang-p2/

 

CUỘC CHƠI CUỐI CÙNG

 

“Đây không phải là trận đánh cuối cùng trong cuộc chiến này,” quan chức quân sự cấp cao của Ukraine nói. “Nga sẽ phải tổn thất hơn nhiều nữa trước khi họ chịu thừa nhận thất bại. Và chiến tranh sẽ không kết thúc ngay cả khi chúng tôi giành được toàn bộ lãnh thổ năm 1991. Bởi vì chúng tôi vẫn sẽ có một kẻ thù ở ngay bên mình. Mục đích của cuộc chiến này không chỉ là đẩy lùi quân Nga và giành lại lãnh thổ của chúng tôi, mà còn là để thuyết phục người Nga đừng nghĩ đến việc thử lại một lần nữa trong vài năm tới. Chúng tôi không có ý định để lại cuộc chiến này cho con cháu mình.”

 

Điều mà một năm rưỡi trước chỉ giống như mong ước viển vông giờ đã trở thành một kế hoạch chiến lược hợp lý. Khi đợt phản công này kết thúc, Ukraine có thể sẽ phá vỡ các phòng tuyến của Nga, giành lại những phần lãnh thổ quan trọng, và về lâu dài sẽ có vị trí thuận lợi để đe dọa các khu vực còn lại đang do Nga nắm giữ, bao gồm cả Crimea. Do đó, những người bạn của Kyiv nên chuẩn bị giúp nước này khởi động các cuộc tấn công trong tương lai nhằm giành lại toàn bộ lãnh thổ được quốc tế công nhận. Tuỳ vào thời điểm Nga quyết định cắt giảm tổn thất, ba kịch bản có thể xảy ra bao gồm “Ai Cập 1973”, “Triều Tiên 1951” và “Triều Tiên 1953”.

 

Trong Chiến tranh Yom Kippur, Mỹ đã giúp Israel chiếm thế thượng phong trước Ai Cập và Syria, sau đó sử dụng mối đe dọa đó để làm đòn bẩy ngoại giao. Như Kissinger đã nói với Nixon, “Chiến lược ngoại giao bây giờ là đạt được một lệnh ngừng bắn và tìm cách liên kết nó, một cách lỏng lẻo, với một giải pháp lâu dài. Để gây áp lực, chúng ta sẽ bắt đầu hỗ trợ trên quy mô lớn và chỉ dừng lại khi đạt được lệnh ngừng bắn.” Khi quân Israel tiến đến Kênh đào Suez và bao vây các lực lượng Ai Cập ở đó, Washington đã làm trung gian cho một thỏa thuận giúp hai bên ngừng giao tranh, cho phép lực lượng Ai Cập rút lui, và chuyển sang các cuộc đàm phán hòa bình có nội dung rộng lớn hơn, cuối cùng tạo ra một thoả thuận mà đến nay vẫn là nền tảng của an ninh khu vực.

 

Giống như ở Ai Cập năm 1973, một chính phủ lý trí ở Moscow ngày nay có thể phản ứng trước viễn cảnh thảm họa quân sự bằng cách chấp nhận thực tế và đồng ý đàm phán nghiêm túc, đặt ra hồi kết cho cuộc chiến, công nhận những lợi ích của Ukraine và những lo ngại về an ninh trong tương lai, để đổi lấy, chẳng hạn như, một Hiệp ước Hữu nghị Nga-Ukraine mới, cho phép Moscow tiếp tục đặt căn cứ Hạm đội Biển Đen ở Crimea. Có lẽ chế độ Nga hiện tại sẽ không chấp nhận một thỏa thuận như vậy, nhưng không có nghĩa là không thể.

 

Tuy nhiên, ngay cả mối đe dọa khả tín rằng Ukraine sẽ chiếm lại toàn bộ lãnh thổ cũng có thể là chưa đủ để gây ra thay đổi thực sự ở Moscow. Trong trường hợp đó, cần phải hiện thực hoá lời đe dọa, với Washington và các đối tác tiếp tục hỗ trợ Ukraine cho đến khi họ giành lại được biên giới năm 1991. Điều này sẽ kích hoạt hai kịch bản liên quan đến Chiến tranh Triều Tiên năm 1951 và 1953, cả hai đều bắt đầu bằng việc khôi phục nguyên trạng lãnh thổ trước đây.

 

Khi Triều Tiên tiến quân qua vĩ tuyến 38 vào tháng 6/1950, Mỹ đã ủng hộ Hàn Quốc và lãnh đạo một chiến dịch của Liên Hiệp Quốc “nhằm đẩy lùi cuộc tấn công vũ trang, khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế trong khu vực.” Trong những tháng sau đó, hai bên đã thay phiên nhau chiếm thế thượng phong, nhưng đến đầu mùa hè năm 1951, tiền tuyến đã bắt đầu ổn định xung quanh vị trí ban đầu của các bên, và chính quyền Truman quyết định rằng đó sẽ là vị trí hợp lý để kết thúc xung đột. Theo lời Ngoại trưởng Dean Acheson vào tháng 6, quan điểm của Mỹ là “Mục đích của chúng tôi là ngăn chặn cuộc tấn công, chấm dứt hành động gây hấn…, khôi phục hòa bình, chống lại sự hồi sinh ý định xâm lược. Theo tôi hiểu, đó là những mục đích quân sự mà vì chúng quân đội Liên Hiệp Quốc đang chiến đấu.” Ngày 23/6, đại sứ Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc, Jacob Malik, đề xuất trong một bài phát biểu trên đài phát thanh rằng cả hai bên đồng ý đình chiến ở vĩ tuyến 38, và đàm phán ngừng bắn trực tiếp giữa các bên tham chiến đã bắt đầu hai tuần sau đó. Thêm hai năm chiến đấu và cuối cùng một hiệp định đình chiến đã được ký kết, để đóng băng cuộc chiến theo đúng đường chiến tuyến ban đầu.

 

Ở Ukraine, kịch bản Triều Tiên 1951 sẽ liên quan đến việc Kyiv chiếm lại toàn bộ lãnh thổ của mình, và giữ vững nó trước các cuộc tấn công mới của kẻ thù, chiến đấu trong một cuộc chiến mở để đảm bảo lợi ích của mình, nhưng vẫn sẵn sàng dừng lại bất cứ khi nào người Nga chịu dừng lại. Dần dần, kịch bản đó có thể phát triển thành Triều Tiên 1953, khi tất cả các bên đồng ý rằng “thế là đủ rồi” và tiến tới hợp pháp hóa kết quả trong một thoả thuận thương lượng nhằm đảm bảo nguyên trạng lãnh thổ trước đó. Vào lúc ấy, những người bạn của Ukraine có thể giúp nước này tồn tại và phát triển lâu dài, mở ra con đường trở thành thành viên của cả EU và NATO, đồng thời khóa chặt Ukraine với châu Âu, một lần và mãi mãi.

 

Nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến là do Nga từ chối chấp nhận sự tan rã của Liên Xô và luôn sẵn lòng giành lại đế chế cũ của mình bằng vũ lực. Vấn đề sẽ chỉ được giải quyết hoàn toàn khi Moscow chấp nhận rằng đế chế của họ đã biến mất vĩnh viễn, và chịu sống như một quốc gia bình thường chứ không phải là một “kẻ săn mồi” quốc tế. Cho đến ngày đó, một hiệp định đình chiến kiểu Triều Tiên không phải là một hình mẫu quá tệ đối với Ukraine, như nhà khoa học chính trị Samuel Charap gần đây đã chỉ ra, “Trong gần 70 năm kể từ khi ký kết hiệp định, không có một cuộc chiến nào khác bùng phát trên bán đảo. Trong khi đó, Hàn Quốc đã nổi lên từ đống trò tàn của những năm 1950 để trở thành một cường quốc kinh tế và cuối cùng là một nền dân chủ thịnh vượng. Một Ukraine thời hậu chiến thịnh vượng và dân chủ, với phương Tây cam kết mạnh mẽ nhằm đảm bảo an ninh cho nước này, sẽ đại diện cho một chiến thắng chiến lược thực sự”.

 

Tuy nhiên, điều mà Charap bỏ sót là đề xuất trên không có nghĩa rằng cần tưởng thưởng cho hành động xâm lược, cho phép Moscow giành được những lợi ích đáng kể về lãnh thổ ở Ukraine, bởi vì Triều Tiên đã không được phép giữ lại những phần lãnh thổ của Hàn Quốc. Phép so sánh với Triều Tiên không củng cố lập trường kêu gọi đàm phán ngay lập tức, ngược lại, nó củng cố lập trường đẩy lùi lực lượng Nga ra khỏi biên giới thời kỳ trước khi bắt đầu chiến tranh, chiến đấu với họ cho đến khi họ chấp nhận một kết quả hòa, và sau đó bảo vệ biên giới để họ không vượt qua nó một lần nữa.

 

Nói đơn giản, cuộc chiến phải tiếp tục cho đến khi Moscow chấp nhận rằng họ không thể giành được lãnh thổ bằng vũ lực. Cho đến khi đạt được bước ngoặt tâm lý đó, Ukraine và những người ủng hộ nước này gần như không có lựa chọn nào ngoài việc tiếp tục đối đầu quân sự với Nga. Khi Nga sẵn sàng chấp nhận thoả hiệp, các biện pháp trừng phạt và các hạn chế khác có thể được dỡ bỏ. Nhưng trước đó, họ sẽ tự làm mình kiệt sức trong vô vọng và sẽ đứng bên lề quốc tế, bị bao vây bởi một tuyến phòng thủ vững chắc chạy từ Biển Baltic đến Biển Đen – một bức màn sắt mới sẽ được dựng lên, không phải để bao vây các nước bị chiếm đóng, mà để giúp bảo vệ các nước khỏi bị chiếm đóng.

 

Phải đến khi thất bại trong cả hai cuộc thế chiến, người Đức mới hiểu được rằng xâm lược sẽ không mang lại kết quả. Vì thế, có thể phải cần đến thất bại không chỉ ở Ukraine, mà còn trong Chiến tranh Lạnh lần thứ hai, thì người Nga mới rút ra được bài học tương tự. Cho đến lúc đó, bức màn sắt phải được bảo vệ. Giống như trong quá khứ. Sẽ cần nhiều năm để đạt được kết quả xứng đáng, và chi phí đối với Ukraine và các đối tác phương Tây sẽ rất cao. Nhưng cái giá phải trả nếu không làm vậy sẽ còn cao hơn, và không chỉ ở Ukraine, mà còn trên khắp châu Âu và trên toàn thế giới.

 

 

CUỘC CHIẾN THỜI HẬU CHIẾN

 

Để cuộc xung đột tổng thể có thể kết thúc, Nga sẽ phải tiếp tục phát triển. Ukraine cũng vậy. Dân chủ hóa trong nước là mặt trận thứ hai của cuộc chiến, và cuộc đấu tranh trên mặt trận đó sẽ còn tiếp tục rất lâu sau khi không còn tiếng súng nào ở miền đông và nam Ukraine. Các nhà cung cấp viện trợ nước ngoài đã đúng khi quan tâm đến tham nhũng và trách nhiệm giải trình. Người Ukraine cũng vậy. Tháng 11/2013, nhà báo người Ukraine Mustafa Nayyem đã viết một bài đăng trên Facebook kêu gọi mọi người cùng ông xuống đường phản đối việc Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych từ bỏ quan hệ đối tác mới nổi với châu Âu. Sự kiện này châm ngòi cho Cách mạng Maidan, cuộc nổi dậy của quần chúng mà sau đó đã lật đổ chế độ Yanukovych. Một thập niên sau, Nayyem, hiện là thành viên quốc hội, người đứng đầu Cơ quan Phục hồi và Phát triển Cơ sở hạ tầng Ukraine, và là một trong những nhân vật chủ chốt quản lý công cuộc tái thiết đất nước. Ông nói, “Cuộc chiến này là phản ứng cuối cùng của Nga đối với Euromaidan. Đó là sự tiếp nối và là đỉnh cao của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do của Ukraine. Chúng tôi đang thoát khỏi quá khứ của mình, và tham nhũng là một phần của quá khứ đó. Cải cách cũng rất quan trọng, chứ không chỉ tái thiết. Nếu những lời hứa trong nước không được thực hiện, thì sau khi giành chiến thắng trong chiến tranh, sẽ lại có một Maidan khác.”

 

Klitschko đồng ý. “Xây dựng lại các tòa nhà là không đủ. Điều quan trọng là phải xây dựng nhà nước pháp quyền và các thể chế dân chủ. Chúng tôi cần cải cách tư pháp, cải cách quân đội, cải cách mua sắm công. Mọi người mong đợi một đất nước mới và tốt đẹp hơn sau chiến tranh.”

 

Trên mặt trận này, chính quyền Biden và các chính phủ phương Tây khác nên chấp nhận những người hoài nghi chiến tranh và mối quan tâm của họ, kết hợp viện trợ hào phóng với các biện pháp bảo vệ mạnh mẽ để đảm bảo chúng được sử dụng đúng cách. Rất hiếm khi chúng ta nghe những người nhận viện trợ nước ngoài cầu xin điều kiện đi kèm, nhưng đó chính là những gì Ukraine đang làm. Hãy là những người bạn tốt thực sự, họ nói; hãy hỗ trợ chúng tôi nhưng cũng buộc chúng tôi tuân theo các tiêu chuẩn cao.

 

 

HOÀN THÀNH CÔNG VIỆC

 

Quan điểm cho rằng cuộc chiến này khiến người ta phân tâm khỏi các quan ngại an ninh quốc gia khác, cấp bách hơn và quan trọng hơn, của phương Tây, là một quan điểm sai lầm. Nhờ cuộc xung đột Ukraine, NATO đang làm hao mòn sức mạnh của kẻ thù, và học được những bài học vô giá về bản chất của chiến tranh thời hiện đại – từ số lượng trang thiết bị cần thiết, đến tầm quan trọng của việc kết hợp công nghệ thương mại và quân sự với nhu cầu đổi mới liên tục và phát triển vũ khí linh hoạt.

 

Thành công trên chiến trường là cách quảng cáo hiệu quả nhất cho bất kỳ hệ thống vũ khí nào, và những chiến tích của Ukraine cho thấy rằng nhu cầu về pháo, xe thiết giáp, và thiết bị phòng không tiên tiến của phương Tây sẽ chỉ tăng thêm. Chiến tranh đã bộc lộ những thiếu sót nghiêm trọng trong cơ sở công nghiệp quốc phòng của phương Tây, nhưng chiến tranh cũng giúp khắc phục thiếu sót đó một cách kịp thời, trước khi tình hình trở nên thực sự nguy cấp đối với an ninh của phương Tây. Những người phàn nàn rằng không có đủ đạn dược để đồng thời bảo vệ Ukraine, Đài Loan, và Mỹ đã đúng. Nhưng giải pháp cho vấn đề không phải là ngừng viện trợ đạn cho Ukraine, mà là sản xuất nhiều đạn hơn. Điều đó đòi hỏi phải cải cách các thể chế hành chính cứng nhắc và các thói quen mua sắm vũ khí không hiệu quả, lần này là ở Washington chứ không phải ở Kyiv. Bộ Quốc phòng sẽ phải đánh giá lại cuộc xung đột ở Ukraine và rút ra bài học cần thiết. Đó không phải là một phiền toái mà là một cảnh báo. Trong khi đó, những người ủng hộ chiến tranh ở cả chính phủ và Quốc hội sẽ phải đảm bảo đủ nguồn tài trợ dài hạn để khôi phục các dây chuyền sản xuất trong nước đối với các vũ khí quan trọng, từ súng đến xe tăng, đạn pháo đến máy bay không người lái, tên lửa đến máy bay. Cuộc chiến này là vấn đề cấp bách và quan trọng nhất trong chương trình nghị sự an ninh quốc gia, và các chính phủ phương Tây cần đối xử với nó đúng như vậy.

 

Người Đài Loan, giống như người Ukraine, hiểu rằng an ninh của họ sẽ được đảm bảo tốt nhất bằng cách buộc Nga quay trở lại nguyên trạng, bất kể giá nào. Tiêu Mỹ Cầm, đại sứ trên thực tế của Đài Loan tại Mỹ, gần đây đã chia sẻ với báo chí, “Tôi nghĩ chống lại hành động xâm lược là thông điệp chính sẽ giúp ngăn chặn bất kỳ ý định hoặc tính toán sai lầm nào cho rằng một cuộc xâm lược có thể được tiến hành nhanh chóng mà không bị trừng phạt, không phải trả giá. Chúng ta phải đảm bảo rằng bất kỳ ai có toan tính xâm lược đều hiểu rõ điều đó, và đó là lý do tại sao thành công của Ukraine trong việc chống xâm lược cũng rất quan trọng đối với Đài Loan.” Phe diều hâu chống Trung Quốc ở Washington nên đồng ý với lập luận đó, thay vì miêu tả xung đột Ukraine là một cuộc chiến sai lầm, sai địa điểm, sai thời điểm, và sai kẻ thù.

 

Dù có thế nào thì điều bắt đầu như một thách thức đối với hệ thống toàn cầu do Mỹ bảo trợ đang giúp cho hệ thống này hồi sinh, và chiến thắng sẽ giúp Ukraine báo thù. Tại Ukraine, Mỹ không đơn phương áp đặt ý muốn của mình lên các quốc gia khác, mà đang lãnh đạo một liên minh rộng lớn nhằm khôi phục trật tự quốc tế. Họ không phạm tội ác chiến tranh mà đang ngăn chặn chúng. Họ không đóng vai trò là cảnh sát thế giới hay kẻ bắt nạt toàn cầu, mà là kho vũ khí của nền dân chủ. Họ đã và đang làm tất cả những điều này một cách hiệu quả mà không cần phải nổ một phát súng hay mất một người lính nào. Nỗ lực đó cho đến nay là một hình mẫu cho cách kết hợp sức mạnh cứng và mềm trong một chiến lược duy nhất. Bây giờ là lúc để hoàn thành công việc này.

 

---------------

Gideon Rose là nghiên cứu viên về Chính sách Đối ngoại Mỹ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại và là tác giả cuốn “How Wars End: Why We Always Fight the Last Battle.”

 

Nguồn: Gideon Rose, “Ukraine’s Winnable War”, Foreign Affairs, 13/06/2023

 





No comments: