Khánh
Trường, người kết nối muôn phương
Trần Thị Nguyệt Mai - Văn Việt
14 Tháng Mười Một, 2022
http://vanviet.info/van/khnh-truong-nguoi-ket-noi-mun-phuong/
Hình : Họa sĩ / nhà văn KHÁNH TRƯỜNG
http://vanviet.info/van/khnh-truong-nguoi-ket-noi-mun-phuong/
Tháng 10/1991, Hợp Lưu ra đời. Tôi đã có mặt ở
Mỹ vài năm, còn thuộc diện dân mới nhập cư. Cảm thấy không kham nổi việc làm nặng
nhọc với vóc dáng “mình hạc xương mai”, nên dù đã xa tuổi thiếu nữ, tôi vẫn cố
công đèn sách tạo dựng tương lai. Xứ sở mới, ngôn ngữ không là tiếng mẹ, đầu óc
tiếp thu chậm, nên trong khi người khác chỉ cần học một giờ thì tôi phải ngốn gấp
ba bốn lần nhiều hơn. Cộng thêm gia đình, con nhỏ… chẳng còn thời gian nào để
nghĩ đến chuyện văn chương. Thành phố tôi ở có ít người Việt, sách báo tiếng Việt
cũng không. Mà nếu như có, chắc tôi cũng đành phải giả đò ngó lơ “cầm bằng như
không biết mà thôi”…
Tôi bắt đầu nghe tên anh khi đọc bài viết
“Khánh Trường, Sức Mạnh Của Im Lặng” của họa sĩ Đinh Cường vào tháng 1/2012
nhân dịp anh bày 30 bức tranh Thiền. Lúc đó, tôi chỉ biết anh là một họa sĩ như
anh Đinh Cường đã nhận xét, “Tôi thật sự cảm phục bạn ở Sức Mạnh Của Im Lặng và
tìm chốn nương tựa cho tâm hồn mình: Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Như Nietzsche với
hình ảnh Zarathustra đã gợi lên lộ trình sâu rộng của một bậc Đại Bồ Tát giữa
lòng đen tối của thế gian. Khánh Trường là hình ảnh của Zarathustra “Trong tất
cả những tác phẩm, ta chỉ yêu những tác phẩm nào đươc tác giả viết bằng máu của
chính mình. Ngươi hãy viết bằng máu rồi ngươi sẽ biết được rằng máu
chính là tinh thần.” Zarathustra đã nói như thế Khánh Trường đã vẽ như thế.” [1]
Cách đây vài năm trước thời đại dịch COVID-19,
trong lần ghé phố Bolsa, tôi nhờ anh Thân Trọng Mẫn đưa đến thăm anh chị Nguyễn
Đình Thuần. Bữa đó anh Mẫn nói với tôi, đại ý: “Anh sẽ đưa Nguyệt Mai đến nhà
anh Nguyễn Đình Thuần. Nhưng tới Bolsa mà không đến thăm anh Khánh Trường là một
thiếu sót lớn. Anh ấy đang bị bệnh nặng, không biết lần tới Nguyệt Maiđến Bolsa
thì còn có dịp để gặp không.” Thế là anh Mẫn chở tôi đến nhà họa sĩ Khánh Trường
trước, dù tôi chưa hề quen anh. Chỉ nghe nói họa sĩ Khánh Trường layout và làm
bìa sách rất đẹp. Lúc đó anh đang bệnh nhiều, phải nằm trên giường. Đương
nhiên, khi cả hai người không quen hay biết gì về nhau thì câu chuyện không thể
tránh khỏi sự tẻ nhạt. Tôi chỉ hỏi thăm anh đôi câu về sức khỏe, còn lại anh Mẫn
và anh nói chuyện với nhau là chính. Quả tình tôi không hề biết mình đang được
hạnh ngộ người sáng lập tờ Hợp Lưu một thời đình đám.
https://image.isu.pub/181106003638-a57525cfcc413129aa3b7e5a73184fee/jpg/page_1_thumb_large.jpg
Hình bìa Hợp Lưu, Số 1 tháng 10 - 1991
Đến khi giúp tạp chí Ngôn Ngữ đọc bản thảo số
2 (tháng 7/2019), xem tùy bút “Tha hồ mây trắng bay” của anh Khánh Trường, tôi
thật sự thương cảm cho hoàn cảnh của một cậu bé sinh ra trong gia đình khó khăn
không may rơi vào số phận nghiệt ngã. “Quá khứ tôi? Chẳng những chả có gì đáng
tự hào, trái lại luôn làm lòng tôi quặn thắt.” [2]. Cậu bé 13
tuổi đã phải rời nhà ra đi khi “Cha tù tội oan khiên. Mất đi nguồn lao động
chính. Bữa cơm hàng ngày dù chỉ mắm rau nhưng vẫn bữa đói bữa no. Bà mẹ kế
không nghề nghiệp. Tôi và hai đứa em trai còn quá nhỏ… Một ngày một đêm trên
con tàu cũ kỹ đến vùng cao, Đà Lạt, đẫm ướt sương mù và lạnh cóng. Đói, khát,
lo sợ. Thằng nhỏ bước xuống sân ga, tay ôm một bọc ni-lông tái chế xỉn bẩn, bên
trong đựng bộ quần áo cũ, hai may-ô, hai quần lót và một gói xôi, ba củ khoai
lang mua từ ga Phan Rang. Trong túi chỉ còn đúng 20 đồng nhàu nhĩ.” [2].
Đi về hướng hồ Xuân Hương, trời lạnh cóng. Nhìn thấy tiệm thuốc tây, cậu bé bước
vào định tránh gió, bớt lạnh thì ông chủ tiệm hỏi mày muốn mua gì. Cảm nhận mối
nghi ngờ nơi người chủ, nó sợ hãi ấp úng, đáp Optalidon “vì có lần đọc báo biết
một thiếu nữ bị tình phụ, cô ta tuyệt vọng, quyên sinh bằng cách uống trọn tuýp
Optalidon”[2]! Rời tiệm với ống thuốc và hai đồng tiền thối, nó tiếp
tục đi vô định đến một trạm taxi, có cây xăng lớn, tìm góc tối cuối nhà rửa xe
và thiếp đi một lát. Khi tỉnh dậy, thấy bọn nhỏ trạc tuổi lăng xăng xách nước,
lau rửa những chiếc taxi trong bến và được tài xế cho tiền, nó nghĩ sẽ sống được
bằng nghề này nên cũng bắt chước làm theo. Chẳng ngờ chưa kịp làm gì thì đã
lãnh ngay một cú đá trí mạng, ngã ngửa của tên đàn anh vùng đó. Rồi cậu bé bị
bán đi cho “chị Hai” của một động điếm. “Buổi tối, sau một ngày mỏi rã chân
ngoài đầu hẻm, léo nhéo mời chào các đấng chiến sĩ rằn ri ngang qua, “Đại ca
ơi, đi một phát lấy hên đại ca. Hàng mới ở tỉnh lên, mướt rượt, đông ngò (nhiều
lông), nước nôi đầy đủ. Hết sẩy đại ca ơi…” Khuya, tôi trở vào, ăn qua quít bát
cơm với vài chị đượi, rồi vào ngủ ở một trong bốn phòng, nếu vắng ‘khách’”[2].
“Một tối, đang thiu thiu nửa tỉnh nửa mê, tôi nghe có tiếng đôi co bên kia
“vách”, “Ra đi cha nội… Uống chi lắm rứa? Dai như đỉa, bộ tui sức trâu à?”. Tiếng
cười hềnh hệch: “Càng lâu càng sướng em ơi… Lẽ ra em phải thối tiền lại cho
anh… Không cảm ơn còn bày đặt than thở…”. “Tui chịu hết nổi rồi.” Tiếp theo, tiếng
động mạnh, có lẽ một thân thể bị đẩy rơi xuống mặt sàn gác. Tôi giật mình tỉnh
ngủ. “Tui không đi nữa, để tui xuống nói Má Hai tìm cho anh con khác. Tiếng đàn
ông lớn giọng: “Đụ mẹ mày ngon. Tao đập chết mẹ mày bây giờ!” “Thách đó, đập
đi!” và tiếng xô xát. Tôi tốc tấm “vách” chạy sang. Tên lính đang nắm tóc chị
T. kéo rịt xuống. Chị T. không vừa, một tay bóp chặt hạ bộ tên lính, một tay
quơ quào rối rít, cố gỡ nắm tóc dài đang bị tên lính làm chủ. Cả hai đều trần
truồng. Chị T. mới đến làm ở “động” non hai tháng, người nhỏ nhắn, không đẹp
nhưng tính tình vui vẻ hào phóng. Chị rất thương tôi. Những hôm ế khách chị và
đồng nghiệp đợi gánh hột vịt lộn ngang qua, gọi vào, chén. Tôi được hưởng ké,
chị T. luôn luôn bao giàn. Khi thấy chị T. bị tên lính hành hung, tôi lập tức
nhảy vào bênh. Tôi phóng người bám trên lưng tên lính, hai tay đấm thùm thụp
vào đầu hắn. “A, thằng oắt con, muốn chết hử?” Tên lính thả chị T. ra, vòng tay
thộp cổ tôi, đẩy mạnh vào vách ván. Tôi nhỏ con, ốm yếu, chả hơn gì con nhái
bén trong bàn tay hộ pháp của tên lính. Chị T. được tự do, vội nhào xuống sàn,
lật gối lấy con dao giấu bên dưới, chĩa về phía tên lính, hét: “Thả thằng nhỏ
xuống. Tên lính cười hăng hắc, không quay lui, thay vì buông tôi ra, hắn lại đẩy
lên cao. Tôi nghẹt thở, tay chân giãy giụa điên cuồng. Chị T. nhào tới. Và thật
bất ngờ, ngoài dự đoán của tôi, của cả tên lính, chị T. vung tay, đâm ngọt lưỡi
dao vào sườn tên lính. Hắn giật bắn người, buông tay, tôi rơi xuống sàn, hắn
cũng loạng choạng quỵ ngã, hai tay ôm bụng. Khi Má Hai hay tin, sai người gọi cảnh
sát đến thì tên lính cũng vừa thở hắt, giã biệt trần gian. Chị T. bị bắt, bị
tù. Ngày tôi được vào thăm, chị vuốt tóc tôi, cười buồn: “Thế này biết đâu lại
hay, ra tù, chị sẽ về quê…” Chị khuyên tôi, “Đời em còn dài, không nên chôn vùi
ở đó…” và chị nhắn Má Hai trao tôi một phần số tiền chị đã dành dụm được trước
đây, hiện Má Hai đang giữ hộ. Nhờ số tiền, tôi mua vé xe đò xuống Qui Nhơn, ở
đó, tôi sống chung với một thằng bạn cùng tuổi trong một toa tàu bỏ hoang cuối
sân ga.”[3]. Giữa lúc tuyệt vọng, đói lả, cậu bé gặp một ân nhân, là
thầy giáo, nuôi cậu trong những ngày đầu và dạy nghề vẽ cho cậu. Từ đó, cậu bé
sống bằng nghề ký họa chân dung cho lính viễn chinh và gái điếm ở những snack
bar còn người bạn thì đi đánh giày. “Trời vừa sụp tối, tôi cùng thằng
bạn cắp sách vở đến các lớp học bổ túc. Trầy trật mấy năm, thằng bạn đỗ được
cái tú tài bán. Hắn đăng lính, lon chuẩn úy, đóng đồn trên Pleiku. Ở đơn vị mới
chưa được bao lâu, một đêm đồn bị tấn công, hắn chết. Tôi mất một thằng bạn
quý. Người đã từng chia ngọt xẻ bùi với tôi suốt thời niên thiếu, người đã từng
đưa lưng hứng chịu một con dao chặt nước đá lởm chởm răng cưa để cản đường cho
tôi thoát thân, khi cả hai bị một băng nhóm khác thanh toán vì đã xâm phạm địa
bàn hoạt động” [3].
Nên từ đó, tôi vào các trang mạng tìm hiểu
thêm những thông tin về họa sĩ Khánh Trường. Đây là lý lịch trích ngang do anh
tự ghi:
“… sinh ra, lớn lên, đi học, đi giang hồ, đi
làm… du đãng. 1968: đi lính, 1970: bị thương. 1972: giải ngũ. 1987: vượt biển đến
Thái Lan. 1988: định cư ở Nam California, Mỹ. Nghề chính: không có. Nghề phụ:
thập cẩm. Một cuộc đời trôi nổi hư hỏng và tầm thường, nhợt nhạt đến chính chủ
nhân cũng phải thở dài!”
(chung cuộc, trang 170) [5]
Anh thổ lộ với Lê Quỳnh Mai, “ngày xưa đi
lính, tôi bị sáu mảnh đạn ghim trong đầu, chấn thương sọ não, mắt vì thế bị lưỡng
thị (nhìn một thành hai). Mấy mươi năm sau giải ngũ, thị giác dần hồi phục,
nhưng vì tai biến, cơ thể suy nhược, bệnh cũ tái phát. Nay, tôi vẽ, phối màu,
phần lớn dựa vào kinh nghiệm, để gia giảm sắc độ hơn là bằng mắt nhìn.” [3]
Và chia sẻ với Đỗ Lê Anh Đào, “giai đoạn sáng
tác đáng nhớ nhất là ngày tôi đã tập cầm cọ lại được sau bạo bệnh. Đáng nhớ, vì
chưa bao giờ trong đời tôi cực nhọc như thế nhưng vui như thế khi vẽ hoặc viết.
Cô cũng biết tôi bị stroke 3 lần, đưa đến hậu quả tay chân chỉ sử dụng được khoảng
30%. Chân đi đứng nghiêng ngả, phải ngồi xe lăn; tay vụng về, cầm nắm vật dụng
nếu thiếu chú tâm, sẽ rơi, đổ; tệ hơn, không viết được, chỉ có thể gõ chữ trên
phím computer bằng một ngón duy nhất của bàn tay phải, chữ được chữ mất vì
không làm chủ được tứ chi. Giọng nói ngọng nghịu, phát âm khó khăn. Mắt lưỡng
thị, chỉ nhìn và nhận biết mọi sự vật qua một… màn sương, và chỉ đọc được chữ
trên màn hình computer với điều kiện phải phóng lớn chữ thành tối thiểu size
14. Chưa hết, hơn một năm trước tôi lại bị thêm bệnh ung thư thanh quản và loét
bao tử. Sức khỏe đã sa sút càng tệ hại trầm trọng, có thể “lên tàu” bất cứ lúc
nào.” [4]
Trần Vũ đã vẽ lại chân dung họa sĩ Khánh Trường
lần đầu gặp mặt:
“Khánh Trường với Khánh (một nhân vật trong
“Có Yêu Em Không” của KT) là một. Một con người và một nhân vật với tất cả liều
lĩnh khinh mạn, nửa hảo hớn, vừa du đãng, chất ngất đam mê nhưng cũng bất cần đời
và đôi lúc biết mất dạy… Những ngày sau tôi khám phá anh là type Django như tôi
ưa thích. Tôi cũng thích có một người anh chịu chơi như vậy, đầy thói hư tật xấu
nhưng biết hiên ngang bao che cho đứa em khi cần thiết.” [6]
Nhưng hơn hết thảy, phải nói đến tấm lòng của
anh đối với văn chương, muốn phá bỏ quá khứ nặng nề, định kiến hẹp hòi một chiều,
tạo một diễn đàn, sân chơi chung để anh em cầm bút hải ngoại và quốc nội cùng
tham gia. Anh đã làm hết sức có thể như vẽ bìa, layout sách, thậm chí viết… dâm
thư với mục đích duy nhất là có tiền trả chi phí giúp tờ báo sống còn, và chịu
đựng tất cả những lời hằn học, bỉ thử của không ít người chống đối. Là “cha đẻ”
của Hợp Lưu, với niềm tin đó là “diễn đàn đầu tiên khởi xướng giao lưu hai dòng
văn học Việt Nam Bắc Nam do hoàn cảnh trớ trêu và bi thảm của một giai đoạn lịch
sử, đã phân rẽ thành hai nhánh. Hai thập kỷ, 1954-1975, nếu lấy chiều dài của
dòng chảy một dân tộc, quả thực chả nghĩa lý gì. Nhưng chúng ta, những người
làm văn học nghệ thuật đã sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong giai đoạn này,
không thể phủ nhận đã khắc đậm vào não trạng của chúng ta, hướng dẫn tư duy của
chúng ta, để sản sinh, làm thành hai mảng văn học chảy về hai hướng khác biệt.
Bằng rung cảm nhạy bén của một người yêu tiếng Việt, chúng tôi đã nhìn thấy điều
đó, và mang khát vọng muốn đồng quy hai dòng chảy này. Bởi chưng, thiển nghĩ,
văn học Việt Nam không thể lớn mạnh nếu không hợp lưu. Một thủy đạo lớn tất
nhiên sẽ mạnh hơn hai phụ lưu nhỏ.” [7]
Anh chia sẻ: “Ngày nay đọc lại những số Hợp
Lưu cũ, bạn đọc mới không thể hình dung được vô vàn khó khăn đến từ nhiều mặt,
từ xin bài, đánh máy, layout, chạy tiền in, quảng bá để có độc giả dài hạn, đi
đến các nhà sách trong phạm vi 6, 700 dặm để phát hành và đòi tiền bán… Một
mình một ngựa. Tôi, đến bây giờ thỉnh thoảng nhớ lại, vẫn còn ngạc nhiên sức lực
đâu chu toàn hàng trăm việc như thế. Nhất là phải đối đầu với nhiều chống đối dữ
dội, cực đoan. Hàng đêm điện thoại gọi đến nhà chửi rủa, lăng mạ, thậm chí còn
hăm dọa ném lựu đạn vào nhà “cho tan xác lũ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
Báo chí bêu riếu, bỉ thử, thậm chí một bà chủ báo viết: “Ra đường chẳng may gặp
tên KT buộc phải bắt tay thì hãy mang vào bàn tay 10 áo mưa để tránh bẩn” (vì đến
số 3 hết tiền in, tôi phải viết… dâm thư, bán, để có tiền in báo). Ban ngày vào
quán, khách quen giạt qua bàn khác vì sợ “lạc đạn”. Tình hình 40 năm trước
không giống bây giờ tẻo teo. Một tác giả trong nước xuất hiện trên một tờ báo hải
ngoại nếu không là Việt cộng thì đích thị là bọn nằm vùng hoặc phản bội, trở cờ
cần thanh toán!!!” [7]
Quyết tâm thực hiện tờ báo, gắng sức vượt qua
những trở ngại khó khăn, Hợp Lưu đã có những thành công, được nhà văn Trần Vũ
ghi lại: “12 năm không biên giới đã cho phép Hợp Lưu đăng tải vô vàn những sáng
tác, biên khảo, phỏng vấn của các tác giả trong nước. Không thể liệt kê hết
16.500 trang của 66 số báo, chỉ có thể nhắc lại những ấn tượng chính:
Quả Vườn Ổi (Hoàng Cầm), Dị Mộng, Qua Sông
(Cung Tích Biền), Ðàn Sẻ Ri Bay Ngang Rừng (Võ Thị Xuân Hà), Giấc Ngủ Nơi Trần
Thế (Nguyễn Thị Ấm), Ðảo Ngụ Cư (Ðỗ Phước Tiến), Vũ Ðiệu Của Cái Bô (Nguyễn
Quang Thân), Phù Thủy, Hậu Thiên Ðường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Lão Khổ (Tạ Duy
Anh), Một Chuyện Phải Gió (Nguyễn Quang Lập), Gió Dại, Khắc Dấu Mạn Thuyền (Bảo
Ninh), Mùa Hoa Cải Bên Sông, Người Ðàn Bà Xóm Trại (Nguyễn Quang Thiều), Bảy
Trích Ðoạn Mùa Xuân Vùng Da Cam, Phòng Bốn Giường (Bùi Hoàng Vị), thơ Thanh Thảo,
Nguyễn Ðỗ, Hoàng Hưng, Bùi Chí Vinh, Nguyễn Quyến, Nguyễn Quốc Chánh, Nguyễn
Duy, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Vàng Sao, Lâm Thị Mỹ Dạ, Triệu Từ Truyền, Lê Ðạt.
Truyện ngắn Nhật Tuấn, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Ngô Thị Kim Cúc, Phan Thị Vàng
Anh, Trần Thùy Mai, Trung Trung Ðỉnh, Lý Lan, Võ Thị Hảo, Trần Thị Trường, Hòa
Vang, Nguyễn Bản, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng, v.v. Biên khảo lý luận của Nguyễn
Kiến Giang, Lại Nguyên Ân, Bùi Thiết, Ðào Thái Tôn, Vương Trí Nhàn, Tiêu Dao Bảo
Cự, Lê Ngọc Trà, Phong Lê, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Xuân Nguyên,
Lê Hoài Nguyên, v.v. Ở mỗi bộ môn đều có rất nhiều bản thảo gởi ra từ trong nước
như trường hợp Thằng Bắt Quỷ (Cung Tích Biền), Xuân Hồng (Nguyễn Huy Thiệp), Từ
Man Nương đến AK (Phạm Thị Hoài), Không Ðề (Trần Vàng Sao), Chia (Nguyễn Trọng
Tạo), Người Thuận Tay Trái, Chạy Ðạn, Dặm Trường (Trần Thị NgH.), Tự Bạch, Tiểu
thuyết Vô Ðề (Dương Thu Hương), Ngọn Núi Ảo Ảnh, Tuyệt Tình Cốc (Hoàng Phủ Ngọc
Tường), Tầng Trệt Thiên Ðường, Nghiệp, Dị Mộng, Khu X Nội Quang (Bùi Hoàng Vị),
Truyện Của Chíp, Bụi Nắng (Phan Huyền Thư), Văn Học và Xã Hội Việt Nam (Phạm Thị
Hoài), Nhìn Chung Một Bức Tranh Hoàn Chỉnh Về Văn Học Dân Tộc (Phạm Xuân
Nguyên), thơ Hoàng Hưng, Nguyễn Ðỗ, Nguyễn Quốc Chánh, nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn
Bạt Tụy, tiểu luận Trần Ðộ, v.v.” [6]
Vì lý do sức khỏe của chính anh và sự từ nhiệm
của chủ biên Trần Vũ cộng thêm những ý kiến không thể thống nhất được trong nội
bộ, anh Khánh Trường đã rút hẳn tên khỏi Hợp Lưu từ tháng 7/2005.
Tháng 10/2022 tới đây là kỷ niệm 31 năm kể từ khi
tạp chí Hợp Lưu ra đời. Tuy anh Khánh Trường không còn làm Hợp Lưu nữa nhưng 12
năm đầu do đích thân anh chăm sóc tờ báo đã lưu lại trong lòng độc giả những dấu
ấn không phai. Như nhà báo Lê Quỳnh Mai đã trích lời Trần Đạo để ở phần chapeau bài
phỏng vấn của cô: “Tạo ra một diễn đàn trong đó mọi nhà văn Giao Chỉ, bất kể
hình hài ít nhiều dị hợm của nó trong thế kỷ 20, đều có tiếng nói, đâu phải
chuyện chơi. Ông là người làm được điều đó. Nội chuyện đó thôi, ông sẽ lưu danh
trong lịch sử văn học Việt Nam trong thế kỷ”[3]. Và nhà thơ Hoàng
Hưng ghi ở chapeau khi giới thiệu bài viết của Khánh Trường “Hợp
Lưu và hợp… tuyển” trên trang Văn Việt ngày 29-1-2019: “Năm năm trước, một số
anh chị em chúng tôi trong nước, lập ra Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
và báo mạng vanviet.info, cũng là tiếp nối ý nguyện, ý chí Hợp Lưu của anh!”
Như thế, ước nguyện mà anh Khánh Trường ấp ủ vẫn
còn và sẽ còn được duy trì.
9/9/2022
-------------
Tham khảo:
[1] Đinh Cường – Khánh Trường, sức mạnh của im
lặng
https://www.diendantheky.net/2012/01/khanh-truong-suc-manh-cua-im-lang.html
[2] Khánh Trường – Tha Hồ Mây Trắng Bay – Ngôn
Ngữ số 2, tháng 7/2019.
[3] Lê Quỳnh Mai – Tác Giả, Với Chúng Ta – Phỏng
vấn Họa sĩ Khánh Trường
https://hopluu.net/a2961/tac-gia-voi-chung-ta-hoa-si-nha-van-khanh-truong
[4] Đỗ Lê Anh Đào – Nói chuyện với Nhà văn / Họa
sĩ Khánh Trường
https://damau.org/12002/noi-chuyen-voi-nha-van-hoa-si-khanh-truong
[5] Hà Khánh Quân – Họa phẩm trong thơ Khánh
Trường
https://www.luanhoan.net/theochantho/html/theochantho-khanhtruong.htm
[6] Trần Vũ – Hợp Lưu 12 năm, trang tôn kinh
huyền hoặc hậu hiện đại
http://phannguyenartist.blogspot.com/2012/12/khanh-truong.html
[7] Khánh Trường – Khánh Trường, Hợp Lưu và hợp…
tuyển
http://vanviet.info/van/khnh-truong-hop-luu-v-hop-tuyen/
No comments:
Post a Comment