Trọng Nghĩa - RFI
Thứ tư 12 Tháng Mười 2011
Về hình thức, chuyến công du Trung Quốc của lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đã mang lại một “kết quả” thấy rõ. Bắc Kinh cam kết giải quyết tranh chấp Biển Đông với Hà Nội một cách hòa bình. Việc hai bên ghi lại trên giấy trắng mực đen các nguyên tắc hướng dẫn đàm phán, được giới phân tích xem là một tiến bộ. Thế nhưng, căn cứ vào tiền lệ thường thấy liên quan đến vấn đề Biển Đông là lời hứa không đi đôi với việc làm, giới phân tích vẫn dè dặt về hiệu quả thực thụ của thỏa thuận.
Trả lời phỏng vấn nhanh của Ban Việt ngữ RFI về bản “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển” được hai thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc ký kết ngày hôm qua, 11/10/2011, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia kỳ cựu về Biển Đông tại Học viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales) trước tiên ghi nhận rằng thỏa thuận này là một bước tiến mới trong tiến trình đàm phán Việt Trung về biên giới :
Thỏa thuận nguyên tắc chỉ đạo việc giải quyết tranh chấp trên biển [giữa Việt Nam và Trung Quốc] đã được mong đợi từ lâu. Vào năm 2008 hai bên đã đồng ý tiến tới thỏa thuận này, và bảy cuộc gặp song phương đã được tổ chức từ năm 2010. Việc loan báo rằng thỏa thuận đã đạt được là một bất ngờ, nhưng rõ ràng là cả hai bên đều muốn trình bày một “thành quả” cụ thể nhân chuyến công du đang diễn ra của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Trung Quốc.
Cho dù thỏa thuận vừa ký kết chỉ mang tính nguyên tắc, tuy nhiên, theo giáo sư Thayer, điểm yếu đầu tiên của văn kiện này là tính chất mơ hồ về thời gian, không quy định thời hạn cho việc tiến hành đàm phán:
Trong thực tế, Trung Quốc và Việt Nam đã từng đạt được một thỏa thuận có tính chất tương tự trong quá trình dẫn đến việc phân định biên giới trên đất liền của họ. Một cuộc họp thượng đỉnh giữa lãnh đạo Đảng của hai nước đã ấn định một thời hạn, và sau đó thỏa thuận về biên giới trên bộ đã đạt được. Nhưng không có dấu hiệu cho thấy là hội nghị thượng đỉnh Việt Trung lần này sẽ quy định ra một thời hạn tương tự cho việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa hai bên.
Về mặt nội dung, thỏa thuận Việt - Trung về Biển Đông, theo giáo sư Thayer, đã để ngỏ rất nhiều câu hỏi mà phải có thêm thời gian mới có đáp án. Một trong những câu hỏi là thái độ của Bắc Kinh sẽ như thế nào nếu Hà Nội vẫn tiếp tục thăm dò và khai thác những vùng mà Trung Quốc đòi chủ quyền. Đề nghị mà Trung Quốc thường đưa ra là đồng khai thác trước, trong khi chờ đợi giải quyết vấn đề chủ quyền, cũng vẫn là một bài toán khó giải quyết :
Thỏa thuận nguyên tắc thể hiện cho một bước tiến, nhưng đó là một bước tiến quan trọng hay không, đó là điều vẫn còn chưa rõ ràng. Các bằng chứng sẽ chỉ được thấy trong những tháng sắp tới đây. Liệu Việt Nam và Trung Quốc có sẽ thực sự khai trương một lĩnh vực nào đó trong số các địa hạt hợp tác được gợi lên hay không ? Nếu có, thì đó sẽ là một dấu hiệu tích cực. Mặt khác, liệu Trung Quốc có sẽ tiếp tục khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của họ trên Biển Đông và lên tiếng phản đối khi Việt Nam ký hợp đồng với các công ty dầu hỏa nước ngoài hay không ?
Vấn đề hợp tác đồng khai thác cũng đã được đề xuất từ lâu. Điều này chỉ có thể xúc tiến được nếu cả hai bên đồng ý trên một điều khoản theo đó việc cùng nhau khai thác phát triển không làm phương hại đến các tuyên bố chủ quyền của mỗi bên. Ngoài ra, Việt Nam sẽ phải cẩn thận xem xét khu vực được chọn để làm nơi đồng phát triển. Khu vực đó không được quyền ảnh hưởng đến một bên thứ ba. Trong vấn đề này, Việt Nam cũng phải chú ý xem là việc chia sẻ dầu khí sẽ được thực hiện trên cơ sở bình đẳng hay là Trung Quốc sẽ dành phần lớn ?
Sau cùng, theo giáo sư Thayer, ngay cả việc thỏa thuận Việt Trung nhắc đến vấn đề lấy Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 làm cơ sở cho các cuộc thương thảo cũng đặt ra nhiều nghi ngại, vì lẽ cho đến nay, cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều không tuân thủ đầy đủ văn kiện này :
Việc nêu lên giá trị của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển bề ngoài có vẻ rất tốt. Tuy nhiên, cả Trung Quốc, Việt Nam lẫn Philippines đều tuyên bố chủ quyền dựa trên những đường cơ sở quá rộng, vốn không phù hợp với luật pháp quốc tế. Các đường cơ sở đó tạo thành nền tảng của việc phân định lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế.
Sẽ là một bước tiến quan trọng nếu tất cả các bên đều đồng ý vẽ lại các đường cơ sở của mình sao cho phản ánh đúng luật pháp quốc tế. Còn vào lúc này, việc viện dẫn Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển chỉ mang tính chất hình thức mà thôi.
--------------------------
Trọng Nghĩa - RFI
Thứ tư 12 Tháng Mười 2011
Trong ngày đầu tiên của chuyến công du Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, 11/10/2011, hai bên đã ký kết một thỏa thuận cam kết giải quyết một cách hòa bình tranh chấp Biển Đông. Thỏa thuận này đáng chú ý ở một vài điểm : nêu bật giá trị của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển, kêu gọi tạm gác vấn đề chủ quyền để đồng khai thác Biển Đông, không loại trừ khả năng thương thuyết đa phương, và thành lập đường dây nóng để giảm ngay căng thẳng khi cần thiết.
Văn kiện mang tên chính thức là “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển” đã được thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn cùng đồng nhiệm Trương Chí Quân ký kết tại Bắc Kinh dưới sự chứng kiến của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản kiêm Chủ tịch nước Trung Quốc Hồ Cẩm Đào.
Nội dung thỏa thuận này bao gồm 6 điểm, lấy cơ sở từ “Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ” ký kết vào năm 1993, hai năm sau khi Việt Nam và Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ. (Phải nói là sau vụ Trung Quốc xua quân mở cuộc tấn công đẫm máu vào các tỉnh biên giới phía Băc Việt Nam vào năm 1979, rồi sau đó phải rút lui, quan hệ Việt Trung đã trải qua hơn một chục năm lạnh nhạt trước khi được sưởi ấm trở lại từ đầu thập niên 1990).
Nếu bỏ qua điểm Một, bao gồm các nhận định chung chung thường thấy trong các tuyên bố Việt Trung như nêu bật hai nguyên lý chủ đạo trong quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh là phương châm được báo giới gọi là “16 chữ vàng” và tinh thần gọi là “4 tốt”, thì điểm Hai đã nêu bật cam kết của hai bên là sẽ kiên trì đàm phán hòa bình “căn cứ theo chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982”.
Điểm Ba của Thỏa thuận yêu cầu hai bên “thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của bản “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC)”. Đáng chú ý trong điều này là khả năng đàm phán giữa nhiều bên với nhau, trong trường hợp “tranh chấp liên quan đến các nước khác”.
Điểm Bốn đã nhắc lại các đề xuất mà Trung Quốc từng đưa ra từ trước đến nay đó là tạm gác tranh chấp để cùng nhau khai thác tài nguyên khu vực.
Điểm Năm không liên quan đến tranh chấp Biển Đông mà chỉ đề cập đến khu vực Vịnh Bắc bộ, nơi hai bên vẫn còn bất đồng trên việc phân định vùng biển ngoài cửa vịnh.
Riêng điểm Sáu dự trù một số biện pháp cụ thể để thúc đẩy đàm phán và dự phòng xung đột. Để xúc tiến thương thuyết, “hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần”, và khi cần, “có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường”.
Khả năng tiếp xúc bất thường này, kèm theo với việc “thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ” được xem là nhằm không để cho các sự cố dữ dội - như vụ tàu Trung Quốc xông vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cắt cáp tàu Bình Minh 02 và Viking II hồi tháng 5 và tháng 6 vừa qua - biến thành xung đột võ trang.
Trong bối cảnh quan hệ Việt Trung trong những tháng gần đây căng thẳng chưa từng thấy từ nhiều năm nay, thỏa thuận Việt - Trung về Biển Đông có thể là một bước tích cực, nhưng giới phân tích thận trọng chờ xem thỏa thuận được áp dụng ra sao.
.
.
.
No comments:
Post a Comment