Monday, August 9, 2010

TÂM LÝ PHẢN TRÍ THỨC (Nguyễn Hưng Quốc)

Tâm lý phản trí thức

Nguyễn Hưng Quốc

Thứ Hai, 09 tháng 8 2010

http://www1.voanews.com/vietnamese/news/tam-ly-phan-tri-thuc-08-09-2010-100279534.html

.

Tin liên hệ

Khinh trí thức

.

Ðường dẫn liên hệ

Nguyễn Hưng Quốc blog

.

Bài trước ghi nhận một sự kiện: đảng Cộng sản, trong suốt mấy chục năm vừa qua, rất khinh rẻ trí thức, hay nói theo ngôn ngữ của Mao Trạch Đông, là coi trí thức giống như... cục phân.

Nhưng có phải chỉ có chế độ cộng sản mới coi thường trí thức?

Tôi ngờ là không. Tôi có cảm tưởng thái độ coi thường trí thức đã có gốc rễ sâu xa trong lịch sử. Cộng sản chỉ lập kỷ lục ở mức độ mà thôi.

.

Có thể nói văn hoá Việt Nam được xây dựng trên một nền tảng: phản-trí thức (anti-intellectual).

Phản-trí thức là tâm lý hoài nghi, hơn nữa, thù nghịch với trí thức, xem trí thức không bằng kinh nghiệm, lý trí không bằng trực giác, lý thuyết không bằng thực hành, lý luận không bằng quyền lực, tư tưởng không bằng tín điều. Trong tâm lý phản-trí thức, tất cả những gì liên quan đến học thuật và những gì có tính chất trừu tượng và uyên bác đều bị xem là "cao vĩ", "viển vông", thậm chí "vu khoát"; chúng không những không đáng tin cậy mà còn đáng bị ghét bỏ, chế diễu và loại trừ. Có thể nói một cách vắn tắt, phản-trí thức thực chất là phản-lý thuyết, từ đó, nó dẫn đến thái độ phản-hàn lâm và việc nghi kỵ những sự phân tích có tính sách vở nói chung.

.

Tâm lý phản-trí thức có thể xuất hiện cả ở những người vốn quen được nhìn như những người trí thức nếu họ chỉ học như vẹt, học một cách nhồi sọ, học với thái độ sùng kính kiến thức từ trong sách vở như những chân lý hiển nhiên và bất biến. Đó không phải là nghịch lý vì bản chất của trí thức không phải chỉ ở kiến thức mà chủ yếu là ở lý trí; mà lý trí, ít nhất là từ cuối thế kỷ 17 trở đi, đặc biệt với Kant, được hiểu như đồng nghĩa với năng lực phê bình (1), trong khi phê bình, tự bản chất, lại có tính chất nghi vấn, muốn đặt mọi sự thành vấn đề.

.

Chính vì thế mới có khái niệm chính sách giáo dục ngu dân dưới các chế độ thực dân cũng như phát xít; cũng chính vì thế mà mặc dù các lãnh tụ của họ lúc nào cũng kêu gọi nâng cao trình độ văn hoá cho dân chúng trong nước, nhưng các chế độ cộng sản, từ Liên Xô cho đến Trung Hoa và cả Việt Nam nữa, trên căn bản, đều là những chế độ phản-trí thức; và cuối cùng, cũng chính vì thế mà tâm lý phản-trí thức có thể là một hiện tượng phổ biến ở ngay cả những quốc gia có trình độ dân trí khá cao hoặc rất cao.

.

Nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của tâm lý phản-trí thức rất đa dạng.

Dân chúng ghét trí thức vì trí thức đồng nghĩa với quyền lực; nhà cầm quyền ghét trí thức vì trí thức đồng nghĩa với tinh thần phê phán; giới lãnh đạo tôn giáo ghét trí thức vì trí thức dẫn đến sự hoài nghi; giới kinh doanh ghét trí thức vì muốn tập trung vào những lợi ích thực tế và cụ thể; ngay chính một phần giới trí thức cũng ghét trí thức vì trí thức bao giờ cũng có khuynh hướng dị hoá, phân hoá và vượt bỏ, do đó, nó trở thành một đe doạ cho những ai không sẵn sàng theo đuổi những hiểu biết mới vốn không ngừng sinh sôi nẩy nở hầu như từng ngày, từng ngày.

.

Phản-trí thức, do đó, là thứ tâm lý phổ biến hầu như ở khắp nơi trên thế giới. Đầu thập niên 60, Leonard Woolf nhận định là "không có dân tộc nào khinh bỉ và nghi kỵ trí thức và giới trí thức cho bằng người Anh" (2). Mấy năm sau đó, Richard Hofstadter, một học giả Mỹ, đã viết hẳn một cuốn sách nhan đề Anti-intellectualism in American Life để chứng minh sự nở rộ của phong trào phản-trí thức tại Mỹ vào thập niên 50 không phải là một hiện tượng bất bình thường mà chỉ là sự bộc phát của một tâm lý tiềm tàng từ lâu trong xã hội Mỹ (3).

.

Riêng tại Úc, từ rất lâu, giới nghiên cứu đã nhận ra phản-trí thức là một đặc điểm nổi bật trong tâm lý của quần chúng: đó là lý do tại sao nói chung phần lớn dân chúng Úc thường sợ tự do, sợ những sự thay đổi, có khuynh hướng thích giải quyết các vấn đề xã hội thông qua bộ máy hành chánh hơn là qua sự thảo luận, thích những chính khách bình dân, nói năng giản dị về những vấn đề cụ thể trước mắt hơn là những chính khách có viễn kiến với những chính sách lâu dài và do đó, mơ hồ (4). Tâm lý phản-trí thức ấy có khi phát triển mạnh mẽ đến độ người ta sẵn sàng ủng hộ những chính khách thiển cận, thậm chí, ngu dốt như trường hợp của Pauline Hanson, một phụ nữ bán fish and chips chuyển qua làm chính trị với lập trường bài thổ dân và châu Á làm ầm ĩ dư luận tại Úc trong mấy năm trước đây.

.

Tuy vậy, theo tôi, có lẽ không ở đâu bệnh phản-trí thức lại rõ rệt và trầm trọng như ở Việt Nam.

Ngày xưa, cả hơn một ngàn năm, mặc dù dân chúng, dưới ảnh hưởng của Nho giáo, quý trọng giới trí thức, hơn nữa, thèm thuồng địa vị của giới trí thức, nhưng hầu hết lại vẫn nghi ngờ trí thức, cái mà họ hoàn toàn không tiếp cận được. Mà chính giới trí thức cũng không hiểu hết ý nghĩa và tác dụng của những kiến thức họ thu lượm được từ sách vở vốn được viết và in ra ở Trung Hoa xa lơ xa lắc. Kiến thức biến thành một trò chơi lắp ghép chữ nghĩa vừa huyền bí vừa vô bổ. Khi đọc, người ta vẫn cắm cúi vào các trang sách như bất cứ ở đâu khác, thậm chí còn sùng kính hơn ở những nơi khác: với họ, mọi trang sách, từ vỡ lòng đến cao cấp, đều có giá trị như những điển phạm, một thứ Kinh Thánh. Thế nhưng, lạ, khi sống và khi làm việc, bất cứ là việc gì, từ việc trồng một luống khoai cho đến việc làm một cái nhà hay cả việc viết văn và làm thơ, người ta chỉ nương cậy vào bản năng, trực giác và kinh nghiệm của chính mình mà thôi.

.

Đến thời Pháp thuộc, đặc biệt từ đầu thế kỷ 20, trước những ưu thế không thể chối cãi của nền văn minh Tây phương, tâm lý quần chúng thay đổi theo hướng ngược lại: người ta ít nhiều coi trọng trí thức vì hy vọng là với nó, người ta có thể đẩy mạnh quá trình hiện đại hoá đất nước để sớm thoát khỏi cảnh nô lệ, nhưng người ta lại coi thường giới trí thức, vốn phần lớn, dưới mắt họ, chỉ là những thư lại trong guồng máy chính quyền thực dân, những kẻ, nói như Tú Xương, "sáng vác ô đi, tối vác về".

.

Nhưng sự thay đổi này chưa kịp gây một ảnh hưởng đáng kể nào ngoài một số cuộc tranh luận khá ngây thơ về các vấn đề lý thuyết, từ chuyện duy tâm và duy vật đến chuyện nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh thì cách mạng tháng Tám bùng nổ, mở đầu một kỷ nguyên mới, với chủ trương đề cao giai cấp công nhân và nông dân, ở đó, cả trí thức lẫn giới trí thức đều bị khinh bỉ. Câu nói của Mao Trạch Đông, "trí thức là cục phân" trở thành một "danh ngôn" và chính sách một thời (5). Sau này, vớ được một câu nói của Goethe, qua sự trích dẫn của Lenin, "Lý thuyết thì xám xịt mà cây đời thì mãi mãi xanh tươi", người ta liền biến ngay tính chất phi lý thuyết trong văn hoá Việt Nam thành một niềm tự hào.

.

Có thể nói, từ góc độ lịch sử, phản-trí thức là một trong những truyền thống lớn của Việt Nam: đó là một trong những nơi hiếm hoi trên thế giới không hề có và cũng không cần có bất cứ lý thuyết nào. Không những không có lý thuyết, chúng ta cũng không có những công trình nghiên cứu về lý thuyết và thậm chí, không có cả những khái niệm mang tính lý thuyết. Điều đó có nghĩa là, tính chất phản-trí thức ở Việt Nam vô cùng phổ biến và sâu đậm.

.

Có thể nói, ở các nước khác, thường chỉ có quần chúng bình dân mới ghét trí thức; ở Việt Nam, ngay cả giới trí thức cũng ghét trí thức; ở các nước khác, đa số dân chúng ghét lý thuyết; ở Việt Nam, hầu như tất cả mọi người đều ghét lý thuyết. Ngoại lệ, nếu có, chắc cũng vô cùng hoạ hoằn.

.

Chú thích:

1. Xem Criticism and Culture: the Role of Critique in Modern Literary Theory của Robert Con Davis và Ronald Schleifer (1991), Longman xuất bản tại Anh, tr. 3-6.

2. Dẫn theo Richard Hofstadter (1966) trong cuốn Anti-intellectualism in American Life, Vintage Books, New York, tr. 20.

3. Richard Hofstadter (1966), sđd.
4. Về chủ nghĩa phản-trí thức tại Úc, có thể đọc thêm chương "Anti-intellectualism in Australia" trong cuốn Revolution from Within, a Contemporary Theory of Social Change của J.D. Blake, Outlook xuất bản tại Sydney, 1971, tr. 101-125.

5. Trong bài "Những bước thử nghiệm của một lớp người viết chúng tôi" (Phạm Phú Phong ghi) in trong cuốn Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, 1945-54, do Ban Văn học Việt Nam hiện đại biên soạn, in lần 2, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, nhà văn Nguyễn Thành Long kể: "Khi đọc tài liệu 'Văn Nghệ Diên An' của Mao Trạch Đông, tôi còn nhớ nguyên văn một câu gây ấn tượng dai dẳng trong tôi: ‘Trí thức là cục phân’. Chúng tôi phải tin theo điều này và tự phủ nhận bản thân mình." (tr. 527)

.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

.

.

.

No comments: