Mở ra chân trời mới Dân Chủ cho Việt Nam trong tương lai (Kỳ 1)
LS Trần Thanh Hiệp
Monday, August 02, 2010 1:56:02 PM
http://www.nguoi-viet.com//absolutenm/anmviewer.asp?a=116852&z=12
LTS: Kể từ số báo ngày 6 tháng 4 năm 2010, trang Diễn Ðàn của Nhật Báo Người Việt mở một mục mới, có tên “Diễn Ðàn Nhân Quyền,” đăng tải các bài viết, ý kiến liên quan đến tình trạng nhân quyền Việt Nam. Diễn đàn này mở rộng cho mọi ý kiến đóng góp nghiêm túc, xác đáng, mang tính xây dựng, và không phỉ báng cá nhân. Người đóng góp thường xuyên cho diễn đàn này là Luật Sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam về nhân quyền, có trụ sở tại
-----------------------------
Dân chủ là một chế độ tồi tệ nhất trong các chế độ, ngoại trừ mọi chế độ khác mà lịch sử đã thử nghiệm. (Winston Churchill)
.
I. Một sự thật của lịch sử Việt
Bàn về việc xây dựng dân chủ cho Việt
1. Từ cuối năm 1945, vị vua cuối cùng của dòng họ Nguyễn, Hoàng Ðế Bảo Ðại, đã tự ý thoái vị để cho nhân dân có tự do lựa chọn dân chủ. Quần chúng, các nhân sĩ và các chính đảng đã công khai biểu lộ nguyện vọng và quyết tâm thành lập tại Việt
2. Ðảng Cộng Sản Việt Nam - chính đảng đứng ra tổ chức cướp chính quyền và cầm quyền gần 70 năm qua - trắng trợn phản bội lời cam kết long trọng trước quốc dân và quốc tế bảo vệ độc lập, ban hành tự do và mưu cầu hạnh phúc cho quốc dân. Tập đoàn cai trị này đã dùng bạo lực và lừa gạt, gây nội chiến, cam tâm tự hiến mình giữ vai trò công cụ cho Ðế Quốc Ðỏ, mượn chiến tranh ý thức hệ quốc tế vô sản giết hại hàng triệu sinh linh vô tội, đặt cả nước dưới ách độc tài đảng trị tàn bạo chưa từng thấy trong quốc sử.
3. Cuối thập niên 1940, một số nhân sĩ chính trị, tôn giáo, văn hóa, quân sự, qui tụ chung quanh Cựu Hoàng Bảo Ðại, đã mở ra một phong trào, rồi một mặt trận dân chủ, võ trang tranh đấu chống lại cường quyền cộng sản. Ba chính quyền dân chủ đã ra đời và cầm quyền trên nửa nước, từ vĩ tuyến thứ 17 trở xuống phía Nam, đến Mũi Cà Mau, với qui mô quốc gia được nhìn nhận trên trường quốc tế. Nhưng năm 1975 trong cuộc tái phối trí của các thế lực quốc tế thiết lập một trật tự thế giới mới, tập đoàn cai trị Cộng Sản từ miền Bắc xua quân cưỡng chiếm miền Nam, phá hủy hết những nền tảng vừa xây đắp của một kiến trúc dân chủ đang thành hình. 5 năm sau, năm 1980, họ để lộ hẳn bộ mặt thật chuyên chính vô sản, kẻ thù không đội trời chung của dân chủ, bọn người đào huyệt chuyên nghiệp mai táng dân chủ.
4. Quốc tế, đứng đầu là Hoa Kỳ, trong tình huống mới của thời sự, đã nhắm mắt làm ngơ trước những tội ác vi phạm nhân quyền có hệ thống và thường trực của tập đoàn cai trị phi pháp, phi nhân quyền Hà Nội, cho nó giữ vai trò một chính quyền thực tế quản lý cuộc sống chung toàn cầu hóa ở trong vùng. Tự do, Dân chủ, không còn được coi là những giá trị cơ bản của nhân loại văn minh tiến bộ, như dưới thời chiến tranh lạnh nữa. Riêng chính quyền Hoa Kỳ, từ năm 2004, đã không còn che giấu đường lối dung dưỡng, trong khuôn khổ chính sách đối ngoại dài hạn của mình, bộ máy cầm quyền cộng sản Việt Nam, phạm pháp, phi nhân quyền, phản dân chủ.
5. Cả hai bộ phận ở trong nước và ở ngoài nước của khối người Việt cho đến nay đông gần 90 triệu rõ ràng là đã và đang là nạn nhân của những thế lực cầm quyền cả quốc tế lẫn bản địa. Hàng triệu người đã hy sinh tính mạng, hàng trăm vạn người đã chịu cảnh tù đày với ước vọng mang trong thâm tâm muốn thấy đất nước sớm có độc lập và tự do dân chủ thật sự. Nhưng thật là bi thảm, tất cả những hy sinh to lớn này chỉ dẫn tới sự áp bức nhân dân ngày càng nghẹt thở và mối đe dọa từ phương Bắc, ngày một nghiêm trọng sự tồn vong của dân tộc. Trong nước, đủ mọi thành phần xã hội đã công khai và ôn hòa tỏ bày sự bất tín nhiệm tập đoàn đương quyền và đưa ra yêu sách nhân quyền, dân quyền phải được tôn trọng. Sự đáp ứng của Nhà nước Cộng sản là leo thang đàn áp bằng công an, tòa án, nhà tù, hết đợt này đến đợt khác. Trong thực tế ở Việt Nam hiện nay người dân phải sống dưới chế độ công an trị, công an quyền là pháp quyền, một hình thức “luật rừng kiểu mới.” Ở ngoài nước, Ðảng Cộng Sản cầm quyền nhờ chỗ dựa ngoại giao Hoa Kỳ, đã công khai mở rộng địa bàn cai trị từ trong nước ra môi trường sinh hoạt của người Việt tị nạn ở hải ngoại, diễn lại cảnh tượng xâm nhập ào ạt từ Bắc vào Nam trước đây. Môi trường chống cộng ở hải ngoại của những thập niên 1980, 1990 đang phô bày những chỉ dấu của một tình trạng biến chất. Thật vậy sự pha trộn chất nhân xã (sociologique) với sự gia tăng mau lẹ về số lượng của lớp người từ trong nước - những yếu tố dị chất (hétérogènes) - ra sinh sống ở hải ngoại đã khiến cho môi trường chống cộng này mất đi sự thuần chất (homogénéité) ban đầu. Người ta tự hỏi không biết tới một lúc nào đó, cái khung chống Cộng còn đủ sức chứa đựng một nội dung nhân xã ngày càng ít tính chất chống cộng nữa hay không?
.
Cả năm sự kiện kể trên được coi như có tính lịch sử bởi vì đã trực tiếp ảnh hưởng tới số phận của dân tộc Việt
Năm 1954, gần một triệu người đã rời bỏ miền Bắc di cư vào miền
Năm 1975 giao lưu đủ mặt, chính trị, kinh tế, văn hóa v.v... giữa hai miền Bắc
Sau biến cố miền
Năm 2010, khối người Việt ở hải ngoại, với số lượng hàng triệu, không còn nguyên chất như trước vì đã trải qua một quá trình trộn lẫn các thành tố nhân xã dị chất, tất không thể không biến dạng. Cái gì sẽ xảy ra cho đất nước? Như 1954 dưới ảnh hưởng của tác động dân chủ? Hay như 1975, theo chiều hướng của đường lối cộng sản độc tài đảng trị “xâm nhập để bành trướng” tóm lược trong Nghị Quyết 36 năm 2004 của Ðảng Cộng Sản Việt
.
Nếu dám và biết nhìn thẳng vào tình thế rất đáng lo ngại của đất nước hiện nay - căn cứ vào thực tế chứ không phải vào những mơ ước viển vông hay vào những lập luận sai lầm và vô trách nhiệm - thì sẽ nắm bắt được một sự thật lịch sử về Dân Chủ ở Việt Nam biểu hiện qua 4 thành tố dưới đây:
Dân Chủ đã được nhân dân chính thức lựa chọn rồi nhưng đã bị độc tài đảng trị phản bội và tiêu diệt.
Ðối đầu với độc tài đảng trị, phe quốc gia không đủ bản lĩnh loại trừ độc tài nên độc tài đảng trị đã ngang nhiên giương lên ngọn cờ dân chủ giả mạo, sang đoạt chủ quyền quốc gia.
Trong khi Trung Quốc công khai can thiệp vào nội trị Việt Nam để bành trường thế lực bá quyền vùng và tranh giành ảnh hưởng siêu cường quốc tế thông qua tay sai bản địa là bộ máy cầm quyền Cộng Sản Việt Nam thì Hoa Kỳ, ngoài mặt cổ võ tự do dân chủ, nhưng bên trong tích cực làm chỗ dựa cho độc tài đảng trị với một dụng đích không xác định.
Kết luận, người Việt Nam phải thấu triệt bài học của lịch sử, theo đó, chấm dứt độc tài đảng trị để xây dựng dân chủ tại Việt Nam là trách nhiệm của chính những người dân chủ Việt Nam. Trông đợi vào sự tự nguyện hoàn lương của độc tài đảng trị là một ảo vọng. Trông chờ cứu tinh ngoại quốc để dẹp độc tài mở đường cho dân chủ là cầu may một cách không có cơ sở để hòng tới đích, nếu không nói là đã tự dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy cạm bẫy. Người Việt Nam phải tự cứu và muốn cứu được nước Việt Nam ra khỏi cơn hiểm nghèo bị nô lệ hóa hay không chừng bị diệt vong trước dã tâm đồng hóa dài hạn của kẻ thù truyền kiếp phương Bắc, không thể có phương cách nào khác ngoài dân chủ đích thực. (Còn tiếp)
.
.
Mở ra chân trời mới Dân Chủ cho Việt Nam trong tương lai (tiếp theo và hết)
LS Trần Thanh Hiệp
Sunday, August 15, 2010
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=117425&z=12
LTS: Kể từ số báo ngày 6 tháng 4 năm 2010, trang Diễn Ðàn của Nhật Báo Người Việt mở một mục mới, có tên “Diễn Ðàn Nhân Quyền,” đăng tải các bài viết, ý kiến liên quan đến tình trạng nhân quyền Việt Nam. Diễn đàn này mở rộng cho mọi ý kiến đóng góp nghiêm túc, xác đáng, mang tính xây dựng, và không phỉ báng cá nhân. Người đóng góp thường xuyên cho diễn đàn này là Luật Sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam về nhân quyền, có trụ sở tại
----------------------
Dân Chủ là một chế độ tồi tệ nhất trong các chế độ, ngoại trừ mọi chế độ khác mà lịch sử đã thử nghiệm (Winston Churchill)
.
II. Nền dân chủ nào cho Việt
.
1. Dân chủ là gì?
Việc tìm ra định nghĩa cho từ ngữ dân chủ đã sản sinh ra nhiều công trình xây dựng lý thuyết. Mặc dầu vậy, dân chủ vẫn còn là một trong những từ ngữ khó định nghĩa một cách đầy đủ. Vì người ta khám phá ra rằng đã có không ít những định nghĩa không có khả năng định nghĩa. Hay nói cho chính xác hơn, định nghĩa để rồi cho phép hiểu theo nhiều cách khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Theo Giovanni Sartori, giáo sư chính trị học, viện trưởng Viện Chính Trị Học tại Ðại Học Florence đồng thời cũng từng giảng dạy tai Ðại Học Harvard, phải dựa vào kinh nghiệm lịch sử để tìm hiểu dân chủ là gì. Và ông phân biệt hai loại định nghĩa về dân chủ. Một loại đưa ra những ngữ nghĩa nhằm miêu tả dân chủ. Ðó là loại định nghĩa miêu tả (définitions descriptives). Loại thứ hai là định nghĩa qui chuẩn (définitions normatives) để chỉ vẽ cách phải thực hiện ra sao dân chủ.
Ta lấy một thí dụ về dân chủ do một nhân vật chính trị hàng đầu người Mỹ đề ra. Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln ngày 19 tháng 11, 1863 khi đến thăm mặt trận tại Gettysburg đã tuyên bố rằng dân chủ là “Chính phủ của Dân, do Dân, vì Dân.” Ðịnh nghĩa này người dân Mỹ hiểu dễ dàng và giống nhau. Ðó là chính phủ do dân lập ra, bằng bầu cử tự do và để phục vụ dân. Nhưng khi được nhập cảng vào Việt
.
Do đó, người ta không thể chỉ hoàn toàn trông cậy vào những “định nghĩa” để coi xem một chế độ có đích thực dân chủ hay không.
Muốn thoát ra khỏi những định nghĩa mà tìm hiểu dân chủ, phải tìm những từ ngữ thích hợp để đề ra những tiêu chuẩn chính trị và pháp lý cơ bản của dân chủ, mà nếu vắng thiếu, không thể gọi là dân chủ được. Trong chiều hướng đó, muốn được kể là dân chủ - trường hợp mô hình “dân chủ tự do” (démocratie libérale) phương Tây - phải hội đủ ba tiêu chuẩn :
Trước hết, mô hình đó phải thể hiện “nguyên tắc dân chủ,” nghĩa là nguồn gốc của mọi quyền lực (pouvoir), nền tảng của mọi quyền uy (autorité) đều xuất phát từ toàn thể quốc dân. Có được vậy thì quyền lực mà Nhà nước hành xử mới có tính chính thống (légitimité), những biện pháp cưỡng hành (contraintes) mới được phép áp dụng vì dân đã tự nguyện thuận nhận.
Mặt khác, chính phủ là một cơ cấu đại nghị, nghĩa là thay mặt cho quốc dân không có trách nhiệm trực tiếp cầm quyền. Trách nhiệm là của những người “đại diện được bầu” của dân, nhân danh dân mà lấy những quyết định quản trị đời sống chung của xã hội. Suốt cả thế kỷ trước, quyền phổ thông đầu phiếu được mở rộng từng bước và cho đến thập niên 1970 thì đã gần như thành một quyền phổ quát, tạo điều kiện cho dân chúng có nhiều cơ hội và hình thức trực tiếp tham dự việc quản trị xã hội.
Sau cùng, với sự ra đời của các chính đảng, diện mạo mới của các chế độ dân chủ đích thực là những cuộc tranh cử tự do, bình đẳng và đa nguyên, được tổ chức theo thủ tục luật định và dưới sự bảo vệ của pháp luật. Diện mạo mới này đang mang trong nó những biến chuyển tự tân và một loại dân chủ tân tạo đang trong vòng thai nghén.
.
2. Một mô hình dân chủ tân tạo cho Việt
Nhân dân Việt
Năm 2010, dân chủ chưa hiện hữu thực sự ở ngoài xã hội mà chỉ mới manh nha trong tư duy. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là mô hình dân chủ tân tạo cho Việt
Nước Việt Nam cổ truyền từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu nay đã trở thành một không gian mới, chưa được quốc tế công pháp cũng như luật quốc gia khái niệm hóa, cũng như chưa được chính người Việt Nam ý thức cụ thể. Nhưng điều này sẽ đến cùng với thời gian. Tư duy phải giữ vai trò tiên phong, phác thảo ra một hình thái xã hội Việt Nam mới, một môi trường có đất sống và quyền sống hòa bình cho mỗi người trong sự tự nguyện tuân thủ luật pháp.
Môi trường mới này chính là nền dân chủ tân tạo sẽ phải thiết lập để cuộc sống chung trong xã hội Việt
Hậu-toàn-trị có hai ý nghĩa. Nền dân chủ mới phải xóa sạch được các dấu vết của chế độ toàn trị đầy tội ác về nhân quyền và dân quyền. Hậu-toàn-trị để mở ra một kỷ nguyên mới đánh dấu bằng sự loại trừ được hệ thống cầm quyền toàn trị, từ hình thức toàn thịnh những năm 1980 đến hình thức tàn dư hiện nay. Hậu-toàn-trị còn để thay thế đấu tranh giai cấp chia rẽ dân tộc bằng hợp tác giai cấp củng cố dân tộc.
Dân chủ tân tạo của thế kỷ 21. Người ta hay nói dân tộc Việt
Sau năm 1945, đảng cộng sản lên cầm quyền dưới danh nghĩa dân chủ nhưng lại để đi theo đường lối độc tài đảng trị. Còn ở miền
Như vậy chỉ riêng miền Nam là có được chút ít kinh nghiệm về dân chủ kiểu phương Tây. Nói cách khác, di sản dân chủ của Việt
Về mặt lý thuyết, nền dân chủ ấy sẽ dựa trên nền tảng là mô hình dân chủ phương Tây mà hai cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ và ở Pháp đã sáng chế ra cuối thế kỷ thứ XVIII. Mô hình này nhằm thể hiện trong xã hội một số giá trị của một chủ nghĩa nhân bản dành cho sự tự do của con người một chỗ đứng ở trung tâm chứ không ở ngoại vi cuộc sống. Và những giá trị ấy đã được dùng làm những nguyên tắc luân lý chi phối quan hệ giữa người với người và làm lý tưởng cho cuộc sống trong xã hội.
Ðó chính là thực chất của một thứ văn hóa kết tinh trong một Nhà nước pháp trị (État de droit, Rule of law). Trong Nhà nước này đi song song với tự do còn có sự tôn trọng nhân phẩm, nhân vị của con người, một thể sống đặc thù, được công nhận và bảo đảm ai cũng bình đẳng trước pháp luật và có quyền được khác biệt, tổng hợp thành một sự hòa hài chính-trị-kinh-tế-pháp-lý trong nhà nước kiểu mẫu của dân chủ tự do phương Tây.
.
Về mặt cơ chế mô hình dân chủ tự do được khai sinh từ cuối thế kỷ thứ XVIII, nay đã trở thành cổ điển, tự bản thân nó đang có những vận động tân tạo (réflexivité) để tu chỉnh cho hai hư cấu (fictions) mà nó đã dùng làm nền móng để triển khai trong lịch sử hơn hai thế kỷ của cái gọi là dân chủ.
Hư cấu thứ nhất là sự đồng hóa, tự nhiên và máy móc,”đa số” với “toàn thể” mỗi khi có kết quả của những cuộc bầu cử dân chủ. Hư cấu thứ hai là “quyết định của đa số” đương nhiên là “quyết định của toàn thể.” Sự thực chẳng có gì chứng minh được rằng đa số là toàn thể và quyết định của đa số là quyết định của toàn thể cả. Người ta đã giao ước với nhau như vậy mà thôi, rồi cứ theo sự giao ước không chứng minh ấy mà thực hiện dân chủ.
Ngày nay, nhờ có được những phát minh của khoa học trong hiện tượng có tên gọi là bùng nổ thông tin, người ta đã tìm thấy cách thực hiện được cái “toàn thể” mà không cần phải dùng đến hư cấu. Người ta không coi cái “toàn thể” do “đa số” tạo nên mỗi khi có bầu cử là có thật. Mà người ta phân tích “đa số” ấy thành ra nhiều “thiểu số” rồi giúp cho những ‘thiểu số” ấy có điều kiện để biểu lộ nguyện vọng, quyền lợi đặc thù của mình rồi phối hợp lại với nhau thành cái mà trước đây cho là toàn thể. Tức là tổng số những thiểu số sẽ họp thành cái “toàn thể.”
Và dân chủ tân tạo trong tương lai sẽ là loại dân chủ kiểu nới, “dân chủ của thiểu số” và là dạng thức trung thành của đa nguyên.
.
Ở đây cần mở ra một dấu ngoặc.
Hai nguyên tắc “đa số là toàn thể” và “quyết định của đa số là quyết định của toàn thể” tuy khởi đầu chỉ là hư cấu nhưng đã chi phối như nhũng quy luật sinh hoạt dân chủ từ hơn hai thế kỷ nay. Tuy nhiên với thời gian, hai nguyên tắc đó vì không thể trở nên những quy luật khoa học nên lại được coi là những “định đề” để cho dân chủ không mất tiêu chuẩn sinh hoạt. Muốn có dân chủ thì phải có “toàn thể” mà “toàn thể” là “đa số.” Cái cơ chế sinh động thủa ban đầu nay đã trở nên xơ cứng. Cho nên tự trong bản thân nó dân chủ đã có những chuyển động tự tân. Thay vì cứ tiếp tục “hư cấu,” nó đã sáng chế ra cách hình thành được “toàn thể” mà không phải dựa vào “đa số” để tạo ra một “toàn thể” tượng trưng, nghĩa là “giả tạo,” dù muốn hay không muốn nhìn nhận sự thật này. “toàn thể” dưới dạng mới này sẽ không còn là một “đa số” biểu tượng cho “toàn thể” mà là tổng số những “thiểu số” họp thành “toàn thể” không phải thông qua “đa số.” Sự đột xuất của cơ chế mới này sẽ kéo theo một tiến trình vận động tân tạo khai mở tương lai mà tạm thời có thể gọi tên là “dân chủ của thiểu số.”
Rõ ràng là tính dân chủ của cơ chế mới này đã tăng trưởng một cách đáng kể, và đã đánh dấu một bước phát triển mới của dân chủ vào thời điểm thế kỷ 21. Hậu quả trực tiếp trước mắt sẽ là quyền lực đã mất đi sự hiện hữu vì không còn đa số (hư cấu) nữa. Quyền lực đã được chuyển sang tay những thiểu số, không còn cơ hội cho một cá nhân hay một chính đảng nào có thể chấp hữu cái đa số hư ảo để áp đặt và trụ vào quyền lực như đã thấy ở những chế độ toàn trị cộng sản thời còn phe xã hội chủ nghĩa và hiện nay ở trong nước.
Người ta có thể khẳng định ngay từ bây giờ rằng nếu nền dân chủ tân tạo còn đang được thai nghén này được thiết lập ở Việt
Nhưng muốn tới được chân trời tươi sáng ấy, trước hết phải thanh toán bộ máy cầm quyền độc tài đương quyền ở Việt Nam, mà nọc độc đang hãm hại cả khối nhân dân vĩ đại gần 90 triệu người.
* *
Sau khi hệ thống cầm quyền toàn trị xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu và Liên Xô cũ sụp đổ, giáo sư người Mỹ gốc Nhật Yoshihiro Francis Fukuyama có đưa ra nhận định đại ý rằng lịch sử dường như đã chấm dứt với mô hình dân chủ tự do (démocratie libérale). Từ lúc có nhận định này đến nay, “lịch sử” đã và đang cho thấy rằng mô hình dân chủ tự do đã không đẩy lui được những chế độ toàn trị cũ đang tìm cách thoát xác dưới những dạng thức toàn trị bất túc nhưng đổi mới thành những chế độ “chuyên hoành” hay còn gọi là “độc đoán” (régimes autoritaires, authoritarian regimes). Bất giác người ta nhớ lại ý kiến của Winston Churchill về dân chủ, “một chế độ tồi tệ nhất trong các chế độ, ngoại trừ mọi chế độ khác đã được lịch sử thử nghiệm.” Dưới ánh sáng của lịch sử, quả thật Churchill đã cho thấy viễn kiến của mình về giá trị thực của dân chủ. Dân chủ không phải đã là chế độ chính trị lý tưởng của loài người, vì nó mang trong bản thân nó mầm mống của những khuyết điểm làm cho nó có thể trở nên xấu. Nhưng đồng thời nó lại có khả năng tự “tân tạo” và vì vậy dân chủ vẫn là chế độ vượt trội các chế độ khác.
Cho nên bắt tay vào việc thiết lập dân chủ cho một nước Việt
.
.
.
No comments:
Post a Comment