Monday, March 1, 2010

BƯU THIẾP CỦA NAM (tiểu thuyết về thuyền nhân VN)

'Bưu thiếp của Nam', tiểu thuyết về thuyền nhân Việt Nam

Minh Anh Washington, D.C

Thứ Hai, 01 tháng 3 2010

http://www1.voanews.com/vietnamese/news/vietnam/Postcard-from-Nam-03-01-10-85823907.html

Vào khoảng thập niên 80, khi vấn đề thuyền nhân Việt Nam là một đề tài nóng bỏng, luật sư Dương Như Nguyện, người luôn trăn trở với cuộc đấu tranh sinh tồn của những thuyền nhân Việt Nam trong các chuyến vượt biển cũng như tại các trại tị nạn ở Đông Nam Á, đã mong muốn có thể tự mình tới giúp những thuyền nhân này với tư cách là một luật sư và một tình nguyện viên. Tuy nhiên, do điều kiện công việc không cho phép, luật sư Nguyện đã không thể thực hiện được ước muốn đó, chính vì vậy bà đã dùng ngòi bút của mình để bày tỏ nỗi cảm thông đối với những thuyền nhân gặp hoàn cảnh khốn khó trong cuốn tiểu thuyết mang tên "Postcards from Nam" .

Hiện tại bà là một giáo sư ngành luật tại trường đại học Denver, nhưng được biết ngay từ thời trung học, cô nữ sinh Dương Như Nguyện đã từng là một cây bút sáng giá của trường Trưng Vương hồi đầu thập niên 1970.

Cuốn tiểu thuyết ngắn được
giáo sư Dương Như Nguyện viết bằng Anh và đặt tên là ‘Postcards from Nam’. Dịch giả Nguyễn Thị Thanh Tâm đã chuyển ngữ sang tiếng Việt với tựa đề ‘Bưu Thiếp của Nam’.

Cuốn tiểu thuyết nói về tình yêu tuổi thơ, đặt trong bối cảnh thuyền nhân trong thập niên 1980.

“Tôi lấy tựa truyện là ‘Bưu thiếp của Nam’ vì trong cuốn tiểu thuyết có nhắc đến một người gửi bưu thiếp mà không nói rõ mình là ai. Bưu thiếp là biểu tượng của những nguồn tin đến từ xa, đồng thời nó cũng là biểu tượng của tiếng nói của một người nào đó, đến từ một nơi chốn nào đó. Hoặc có thể là nguồn tin hoặc tiếng nói của cả một tập thể hoặc của một dân tộc nào đó mà cá nhân ấy chỉ là một phần tử. Vì ý nghĩa biểu tượng của chữ bưu thiếp cho nên tôi mới đem hình ảnh bưu thiếp vào cuốn tiểu thuyết này. Trong cuốn tiểu thuyết thật tình có một người đã gửi bưu thiếp cho một người khác, nhưng đồng thời bưu thiếp đó cũng là biểu tượng của một cái gì to tát hơn chỉ là một tiếng nói của một cá nhân nhỏ bé.”

Giáo sư Nguyện cho biết người kể chuyện là một phụ nữ trẻ làm nghề luật, cuộc đời của cô ta rất trôi chảy và không dính dáng gì nhiều đến vấn đề thuyền nhân. Vào một buổi sáng cô ta nhận được một vài cánh bưu thiếp của một người Việt Nam viết bằng tiếng Việt, gửi từ Đông Nam Á, nhưng cô ta không biết người đó là ai, và cô ta không nhớ được đã quen biết với người này như thế nào, nhưng những lời viết nguệch ngoạc và ngắn ngủi trong bưu thiếp rất chân tình và làm cô xúc động.

“Câu chuyện bắt đầu từ đó và sau đó người con gái này quyết định đi tìm chủ nhân của những tấm bưu thiếp đó. Một điểm đặc biệt nữa là những tấm bưu thiếp này do chủ nhân làm lấy cho nên tiểu thuyết mới có tựa là “Bưu thiếp của Nam” - Poscards from Nam. Đến cuối câu chuyện cô ta mới biết rõ người gửi là ai vì cô ta có dự án đi tìm tác giả của tấm bưu thiếp và sau khi bí mật đó được giải tỏa thì cô ta mới biết được tác giả và hồi tưởng lại tác giả của những bưu thiếp đó là ai. Một điểm đặc biệt nữa. Sau khi bí mật được giải tỏa thì người con gái ấy tự làm một lời hứa với chính mình. Tôi không nói rõ đó là lời hứa gì, nhưng hy vọng độc giả đọc bản tiếng Việt sẽ tự suy ngẫm về lời hứa đó. Thành ra câu chuyện nói về sự tương kết và liên lạc giữa hai người,một người viết và một người vẽ dùng những nét hội họa và cả hai người đều tự học.”

Khi được hỏi tại sao bà lại lấy bối cảnh thuyền nhân cho cuốn tiểu thuyết của mình vào thời điểm này, khi mà cuộc chiến tranh đã kết thúc hơn 30 năm nay, và vấn đề thuyền nhân Việt Nam hiện không còn là một vấn đề nóng bỏng thu hút tin tức trên thế giới, giáo sư Nguyện giải thích:

“Tác phẩm này chính ra tôi thai nghén từ năm 1985, lý do mà tôi chọn chủ đề và bối cảnh nói về thuyền nhân vì năm 1985 tôi đang làm luật sư ở vùng Hoa Thịnh Đốn và trong thời gian đó tôi làm thiện nguyện cộng tác với hội luật sư đoàn chuyên về các dịch vụ thiện nguyện ở NY và Washington. Trong khoảng thời gian thập niên 80 một vấn đề rất nan giải có liên quan đến người Việt là vấn đề thuyền nhân và vấn đề người tị nạn và các trại tị nạn ở Đông Nam Á. Cũng trong khoảng thời gian đó có quyết định của bà thủ tướng Anh gửi một số người tị nạn Việt Nam về lại Việt Nam, thành ra đó là những vấn đề mà một số các luật sư thiện nguyện ở New York và Washington đã quan tâm đến, khi đó tôi đang làm việc về thương mại và tố tụng, thì tôi có ý định muốn bỏ việc làm một thời gian để đi làm dịch vụ thiện nguyện ở các trại tị nạn ở Đông Nam Á, nhưng sau đó tôi đã không làm được điều này, vì thế tôi muốn viết một cuốn tiểu thuyết dựa trên bối cảnh thuyền nhân.”

Đối với độc giả trong nước, nếu được đọc cuốn tiểu thuyết này, họ sẽ nghĩ sao? liệu rằng khi nhắc lại vấn đề thuyền nhân, nhắc lại những thảm trạng của thuyền nhân, liệu độc giả trong nước có nghĩ một số người Việt ở hải ngoại không muốn bỏ qua những thù hận trong quá khứ để hướng tới tương lai? Và cuốn tiểu thuyết này giúp gì trong sự hàn gắn giữa hai bên?

Giáo sư Nguyện giải thích rằng tác phẩm của bà hướng tới cả độc giả hải ngoại lẫn trong nước và hơn thế nữa văn chương tiểu thuyết và văn chương sáng tạo có giá trị cần phải đóng góp và nói lên một phần nào tri thức về đời người. Kinh nghiệm di dân là vô cùng quí báu trong vấn đề tri thức chung của nhân loại, cần phải ghi lại cho thế hệ mai sau.

Bà nói rằng kinh nghiệm di dân và thảm cảnh là kinh nghiệm lập quốc của nước Mỹ. Vùng đảo Ellis là nơi đón nhận những người di dân từ châu Âu. Nơi đây đón chào những con người đã bị bỏ rơi, bị đau khổ, đàn áp, muốn đi tìm một vùng đất sẽ đón nhận họ…”. Bà trích lời một thi sĩ Do Thái từ đầu thế kỷ 20, nói rằng “ngày hôm nay, nếu một vị tổng thống da màu đang làm việc ở Tòa Bạch Ốc, thì điều đó có nghĩa là giấc mơ “Mỹ” đã được toại nguyện?”.

Bà nói từ lúc đó cho đến giờ đã gần một thế kỷ, vậy điều đó có nghĩa là chúng ta có nên nói đến những câu chuyện di dân của nước Mỹ hay không? Chúng ta có nên kết luận rằng kinh nghiệm của đảo Ellis, và kinh nghiệm người di dân từ Âu Châu đã lỗi thời, và chúng ta không nên sống lại những thảm cảnh của Âu Châu? Nhìn dưới hình thức ấy, thì Postcards from Nam không bao giờ lỗi thời mà cũng không gây chia rẽ.

Giáo sư Nguyện nói thêm rằng độc giả Việt Nam ở hải ngoại có tự do tư tưởng mà mở cửa đón chào độc giả người Việt trong nước và ngược lại. Vì vậy bà không nghĩ rằng có một ranh giới nào giữa độc giả hải ngoại và độc giả trong nước về khía cạnh tình người, khía cạnh nhân bản hay khía cạnh đi tìm cái đẹp cho nhân loại. Nếu có ranh giới, đó là hoàn cảnh lịch sử, chính trị, xã hội, và bà cho rằng tất cả những ranh giới đó, nếu có, đều không đặt trên giá trị trường cửu, mà giá trị trường cửu theo bà phải là giá trị của con người đi tìm cái đẹp, giá trị chung của nhân sinh.

Bà nói những thảm cảnh của con người cần phải được hiểu trong tinh thần nhân bản bởi bất cứ ai mang kiếp làm người, ở bất cứ hoàn cảnh hay bối cảnh nào. Việc hiểu thấu đáo và chấp nhận những khuynh hướng hay cái nhìn từ hải ngoại là ở trái tim độc giả yêu chuộng văn chương và sự trung thực của ngòi bút và còn tùy thuộc vào vấn đề một tác phẩm có bị cấm đoán hay không.

Hải ngoại hay trong nước chỉ là ranh giới biên cương mà thôi và môi trường của nghệ thuật và kinh nghiệm nhân sinh không hề có ranh giới.

Một trong những độc giả đầu tiên của cuốn tiểu thuyết, tiến sĩ Trần Văn Tòng, một độc giả ở Paris, viết cảm nhận về cuốn tiểu thuyết này như sau, xin trích dẫn: ‘Bài học mà ta phải rút ra từ cái đẹp trong “Bưu Thiếp Của Nam” không phải là bài học về tác phong anh hùng, đúng, sai, xấu, tốt, mà là bài học về tình người và về nguồn mạch tinh thần của một tập thể. Hiểu như thế, cái đẹp không hề áp đảo một ai, nhưng trái lại, trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại, trong từng ngày, ở từng giây phút, nó đã an ủi và nâng đỡ hàng triệu người bị dìm trong tai biến, và có thể nó đã giải thoát vĩnh viễn một số cá nhân …’

Bản tiếng Việt của cuốn tiểu thuyết đã được in tại Nhà xuất bản Văn Mới ở California, và giáo sư Nguyện cũng hy vọng sẽ mang tới độc giả Mỹ cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Anh trong thời gian tới.

.

.

.

No comments: