Tham vọng ‘hóa rồng’
vào năm 2045: Đâu là những điểm nghẽn chính của Việt Nam?
Nguyễn N. Hạnh
| Luật Khoa tạp chí
02/10/2025
https://luatkhoa.com/wp-content/uploads/2025/10/VN2045-2048x1152.jpg
Ảnh
minh họa: Thiên Tân/Luật Khoa.
Các nhà làm chính sách cần tỉnh táo và không nên
“thần thánh hóa” công nghệ nếu nền móng thể chế và năng lực thực thi chưa sẵn
sàng.
Đại hội 13 của Đảng Cộng sản vào năm 2021 đã đặt
mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045,
mà động cơ chính để thúc đẩy con tàu về đích được xác định là khoa học – công
nghệ và đổi mới sáng tạo.
Nhưng để thực sự “hóa rồng”, dễ nhận thấy rằng
không thể chỉ dựa vào phát triển khoa học – công nghệ. Công nghệ không thể là
động cơ đơn độc, mà phải gắn chặt với cải cách và phát triển về thể chế, nguồn
nhân lực, cùng với nền tảng công nghiệp.
Bài viết này sẽ tiến hành nhận diện điểm mạnh và
điểm yếu của nền công nghệ của Việt Nam hiện nay, đối chiếu kinh nghiệm của các
nước đối tác ở Đông Á, và đưa ra một số gợi ý về chiến lược “hóa rồng” mà đất
nước đang vươn tới.
Nền kinh tế số
đang phát triển
Một thước đo nền tảng của năng lực công nghệ là
xem xét mức độ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).
Theo WIPO, Việt Nam xếp hạng 44/133 về
Chỉ số đổi mới toàn cầu 2024 (Global Innovation Index 2024), và được ca ngợi là
có cải thiện thứ hạng và hứa hẹn tiềm năng phát triển. [1]
Tuy nhiên, chi tiêu cho R&D của Việt Nam mới
đạt khoảng 0,43% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) (theo số liệu mới nhất vào năm 2021), thấp hơn đáng kể
so với các nền kinh tế công nghệ ở châu Á. [2]
Điểm mạnh nổi bật của Việt Nam nằm ở nhóm chỉ số
đầu ra như xuất khẩu công nghệ cao tính theo tỷ trọng thương mại, song điểm yếu
lại tập trung ở vốn con người, tức là năng lực nghiên cứu và thể chế.
Bức tranh ngành số hóa những năm gần đây có
nhiều gam màu sáng. Theo số liệu từ
Bộ Thông tin và Truyền thông vào năm 2024, doanh thu của các doanh nghiệp công
nghệ số đạt xấp xỉ 158 tỷ USD; cả nước có khoảng 73.788 doanh nghiệp công nghệ
số, với nguồn thu từ thị trường nước ngoài ước đạt 11,5 tỷ USD; riêng xuất khẩu
phần cứng và điện tử ước khoảng 133,2 tỷ USD. [3]
Các con số này cho thấy quy mô và tốc độ của hệ
sinh thái số đang mở rộng nhanh, chứng minh rằng “các
doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đang dần chuyển đổi từ lắp ráp và gia công
sang sáng tạo, tự thiết kế và làm chủ các công nghệ cốt lõi”. [4]
Động lực vĩ mô đến từ kinh tế số cũng trở nên rõ
ràng và tích cực hơn. Năm 2024, kinh tế số được ước tính chiếm 18,3% GDP, tăng
trưởng trung bình trên 20% mỗi năm – mức tăng nhanh hơn nhiều so với tăng
trưởng GDP, và thuộc nhóm cao trong khu vực (tăng nhanh nhất trong khu vực Đông
Nam Á). [5]
Việt Nam hiện là một trong 10 thị
trường thương mại điện tử phát triển nhanh nhất trên toàn cầu. Do đó, có thể
nói xu hướng kinh tế số ngày càng đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước
là điều khó phủ nhận. [6]
Những hạn chế
đáng lo
Tuy nhiên, song song với gam màu sáng và các tín
hiệu tích cực nêu trên là những hạn chế rõ rệt.
Thứ nhất, Việt Nam vẫn dựa nhiều vào lắp ráp
trong chuỗi giá trị công nghệ. Theo Tổng cục Thống kê, ngành điện – điện tử năm
2024 xuất khẩu khoảng 126,5 tỷ USD (xấp
xỉ một phần ba tổng kim ngạch xuất khẩu), thế nhưng giá trị gia tăng nội địa
còn mỏng; doanh nghiệp nội nắm ít khâu thiết kế, tiêu chuẩn, và sở hữu trí tuệ.
[7]
Thứ hai, ngành bán dẫn – nền móng của công
nghiệp số – hiện vẫn còn mới mẻ, chưa có nhiều thành tựu. Ngành này chỉ vừa bứt
lên ở khâu đóng gói, kiểm định nhờ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
mới từ nhiều tập đoàn nước ngoài như Amkor Technology (Hàn Quốc), Hana Micron
(Hàn Quốc), Intel (Mỹ). Theo báo cáo được công bố vào tháng 5/2024 bởi Hiệp hội
Công nghiệp bán dẫn Mỹ và Boston Consulting Group, Việt Nam có thể nâng thị
phần lắp ráp, thử nghiệm và đóng gói (ATP) toàn cầu từ khoảng 1% năm 2022 lên 8-9% vào
năm 2032 nếu các dự án được thực hiện theo đúng tiến độ. [8]
Tuy nhiên, năng lực thiết kế và đặc biệt là chế
tạo “front-end” trong
nước còn sơ khởi; triển vọng phụ thuộc lớn vào chất lượng thực thi chính sách
chuyển giao công nghệ và phát triển chuỗi cung ứng nội địa. [9]
Thứ ba, “nút thắt” nhân lực chất lượng cao chưa
được tháo gỡ. Chính phủ đã công bố mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư bán dẫn đến
2030. Bên cạnh đó, chương trình “Phát
triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm
2050” cũng đặt mục tiêu đến năm 2050, phấn đấu đáp ứng đủ nhu cầu tại Việt Nam
về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn trong tất cả
các công đoạn của chuỗi giá trị. [10]
Nhưng để biến các mục tiêu tham vọng vừa nêu
thành “năng lực thực chiến” thì đất nước phải có mạng lưới các chương trình
nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế, thời lượng thực hành cho kỹ sư và người lao động
đủ nhiều để đủ sâu, và cơ chế đủ thông thoáng để thu hút chuyên gia nước ngoài.
Kinh nghiệm từ
khu vực
Để tận dụng tốt lợi thế của người đi sau, cần
phải xem xét và lưu ý kỹ cách mà các quốc gia trong khu vực đã cất cánh, thông
qua các chiến lược và chính sách trọng điểm của họ.
Không nói đâu xa, chỉ cần nhìn ra Đông Á, ta sẽ
thấy được quy mô cần thiết phải đạt của các khoản đầu tư nếu Việt Nam muốn cất
cánh. Hàn Quốc duy trì cường độ R&D thuộc nhóm cao nhất trong Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế (OECD), chiếm 5,0% GDP năm
2023 (chỉ sau Israel với 6,3%). [11] Ngoài ra, tháng 4/2025, Bộ Tài chính nước
này cho biết Chính phủ sẽ triển khai các biện pháp hỗ trợ, bao gồm việc mở rộng
ngân sách đầu tư vào lĩnh vực bán dẫn từ mức 26 nghìn tỷ won hiện tại lên 33 ngàn tỷ won (khoảng
23,2 tỷ USD) để xây dựng hệ sinh thái đổi mới bán dẫn do “tư nhân dẫn đầu”
(private-led). [12]
Năm 2024, Hàn Quốc cũng công bố kế
hoạch tham vọng xây dựng một “cụm siêu bán dẫn” ở phía Nam Seoul vào năm 2047,
trải dài từ Yongin đến Pyeongtaek với quy mô diện tích 21 triệu mét vuông, có
lồng ghép các ưu đãi thuế, tín dụng, và hạ tầng cho doanh nghiệp trong nước.
[13]
Ngoài xứ sở kim chi, Đài Loan cũng có thể cung
cấp một mẫu hình về chiều sâu công nghệ. Các nỗ lực R&D của đảo quốc này
hiện vẫn chủ yếu tập trung vào phát triển công nghệ. [14]
Theo số liệu từ Bộ Kinh tế, chi tiêu cho hoạt động R&D của Đài Loan
đạt 937,3 tỷ Đài tệ (30,63 tỷ USD) vào năm 2023, tăng so với mức 898 tỷ Đài
tệ của năm 2022. [15] Các công ty trong ngành máy tính, điện tử, và quang điện
tử chiếm 78,1% trong tổng số đầu tư và xu hướng này được thúc đẩy bởi
nhu cầu về các công nghệ mới nổi trong bối cảnh bùng nổ trí tuệ nhân tạo. [16]
Nền tảng doanh nghiệp dẫn đầu như TSMC giúp hòn
đảo này đóng góp đến khoảng 90% lượng
chip tiên tiến nhất thế giới. Đây là kết quả của chiến lược kiên định trong
nhiều thập kỷ: tập trung vào các lớp công nghệ lõi, xây dựng mạng lưới chặt chẽ
viện – trường – doanh nghiệp, và “neo” chuỗi cung ứng phụ trợ sát nhà máy. [17]
Bên cạnh đó, từ năm 2015, Bộ Kinh tế đã thúc đẩy
các chương trình thu hút các công ty công nghệ nước ngoài thành lập các trung
tâm R&D tại Đài Loan. Nguồn đầu tư nước ngoài vào Đài Loan tạo ra một “Lá chắn Silicon” (Silicon Shield), giúp ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc
thông qua vai trò quan trọng của Đài Loan trong chuỗi cung ứng chip toàn cầu.
[18]
Singapore lại đi một con đường khác: thay vì xây
dựng “đại công xưởng”, họ đầu tư có mục tiêu vào hệ sinh thái kết hợp giữa
R&D – doanh nghiệp, với chi tiêu gộp cho hoạt động nghiên cứu và phát triển
(GERD) chiếm 1,8% GDP năm 2022, được vận hành bằng khuôn khổ Kế hoạch
RIE2025 (2021-2025) trị giá 25 tỷ SGD, với
một trong các trụ cột là “thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tăng cường năng lực
đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp”. [19]
Dù mức chi cho R&D của Singapore không quá
to lớn như Hàn Quốc, nhưng tính ổn định, kỷ luật chính sách, và khả năng kết
nối nguồn lực toàn cầu giúp Singapore nổi lên như một trung tâm toàn cầu (global
hub) cho các công ty khởi nghiệp công nghệ, thu hút các doanh nhân và nhà đầu
tư từ khắp nơi trên thế giới. [10]
Việt Nam nên
làm gì?
Từ kinh nghiệm của các quốc gia Đông Á, ta có
thể nhận ra hai khoản đầu tư mang tính then chốt mà Việt Nam nên tham
khảo.
Thứ nhất là “độ dày” đầu tư tri thức. Khi Việt
Nam chỉ mới đầu tư khoảng hơn 0,43% GDP cho
R&D (năm 2021) và xếp hạng yếu về “vốn con người – nghiên cứu”, việc kỳ
vọng bứt phá công nghệ lõi khi thiếu một cú nhảy có kiểm soát về R&D là
thiếu thực tế. [21] Cần biết rằng mức chi cho R&D của Việt Nam ở vào mức
rất khiêm tốn, trong khi mức chi trung bình của thế giới cho R&D ở
vào 2,62% GDP, gấp 5
lần Việt Nam. [22]
Hơn nữa, khoảng cách giữa nghiên cứu và ứng dụng
tại Việt Nam vẫn còn rất đáng kể, làm hạn chế khả năng thương mại hóa các sáng
kiến. Nghiên cứu của hai giảng viên Đại học Luật ở Hà Nội chỉ ra rằng hệ
sinh thái R&D của Việt Nam “còn phân mảnh”, cụ thể là chính phủ chủ yếu
đóng vai trò điều tiết, trong khi các doanh nghiệp tư nhân hoạt động độc lập,
ít hợp tác với các trường đại học và viện nghiên cứu. Việt Nam cũng chưa tận
dụng được hết tiềm năng hợp tác với các tập đoàn công nghệ toàn cầu để chuyển
giao tri thức, phát triển nhân tài và thu hút đầu tư vào R&D. [23]
Thứ hai là về mô hình chính sách. Hàn Quốc dùng
gói hỗ trợ quy mô lớn và ổn định, Đài Loan bám trụ vào công nghệ lõi, trong khi
Singapore tối ưu quan hệ giữa thể chế và tính kết nối. Từ các so sánh này, Việt
Nam nên tập trung vào một lộ trình khả thi hơn, với các ưu tiên cụ thể thay vì
dàn trải.
Về thể chế, Việt Nam cần tối ưu hóa cơ chế lựa
chọn nhiệm vụ khoa học – công nghệ mang tính quốc gia, gắn ngân sách công với
nguồn tài trợ từ doanh nghiệp; đồng thời có “đầu ra” gắn với mục tiêu thị
trường cụ thể. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, nhờ các
chính sách tín dụng và khấu trừ thuế cho các khoản đầu tư vào ngành công nghiệp
bán dẫn trong nước, xây dựng hạ tầng cụm chip khổng lồ, cắt giảm thủ tục hành
chính có thể thúc đẩy việc làm và thu hút thêm nhân tài. [24]
Về nhân lực, mục tiêu 50.000 kỹ sư bán dẫn đến
2030 nên đi kèm bộ tiêu chuẩn đầu ra thống nhất và cơ chế “đặt hàng” cùng doanh
nghiệp. Kinh nghiệm từ Đài Loan nhấn mạnh mối liên kết “chính
phủ – trường học – công ty”; sinh viên, kỹ sư phải được xoay vòng qua dây
chuyền thực tiễn, bài tập thiết kế trên công cụ công nghiệp, và tiếp cận giảng
viên kiêm nhiệm từ doanh nghiệp. [25] Nếu thiếu những mắt xích có tính kết nối
này, con số đào tạo dù lớn đến bao nhiêu chăng nữa cũng khó mà chuyển hóa thành
năng lực cạnh tranh.
Về chuỗi cung ứng, Việt Nam cần xác định các
lĩnh vực có lợi thế tương đối để đầu tư có chiều sâu. ATP là cửa vào tốt, nhưng
muốn nâng giá trị, Việt Nam nên chọn một số mảng vật liệu – linh kiện – thiết
kế có tính bổ trợ. Bên cạnh đó, các ưu đãi FDI nên gắn điều kiện ràng buộc
chuyển giao công nghệ, tỷ lệ nội địa hóa theo lộ trình và chương trình đồng
phát triển với doanh nghiệp trong nước, thay vì chỉ đơn thuần là miễn giảm
thuế.
Về đo lường và “kho dữ liệu” chính sách, Việt
Nam đang thúc đẩy các chính sách về kinh tế số, nhưng để điều hành hiệu quả cần
chuẩn hóa phương pháp tính, dữ liệu mở và đối sánh khu vực. Việc kinh tế số ước
tính chiếm 18,3% GDP năm
2024 là một tín hiệu tích cực; bước tiếp theo là tách bạch đóng góp theo ngành,
theo loại hình doanh nghiệp và theo vùng để có chính sách nâng cao năng suất
phù hợp. [26]
Một thực tế rất rõ rệt là trình độ hiểu biết về
công nghệ giữa các khu vực có chênh lệch khá lớn, có thể
ảnh hưởng đến mục tiêu chung. Trong khi các khu vực thành thị nhạy bén và nhanh
chóng hơn trong việc tiếp nhận các dịch vụ số, thì các vùng nông thôn và miền
núi lại tụt hậu, khoảng cách này làm hạn chế việc áp dụng các chủ trương trên
quy mô toàn quốc. [27] Điều này đòi hỏi chính sách phải chú ý đến yếu tố vùng
miền để kinh tế số không mang tính loại trừ đối với các khu vực miền núi và
nông thôn.
Một điểm quan trọng mà các nhà làm chính sách
cần tỉnh táo, đó là không nên “thần thánh hóa” công nghệ nếu nền móng thể chế
và năng lực thực thi chưa sẵn sàng. Nhiều dự án bán dẫn quy mô lớn đã công bố
“trên giấy” ở nhiều nước nhưng rơi rụng khi gặp thực tế giải phóng mặt bằng,
thủ tục, hạ tầng điện – nước – môi trường hay thiếu nhân lực.
Việc Hàn Quốc có thể thành công không chỉ vì
quốc gia này có nguồn đầu tư lớn (hiểu đơn giản là “mạnh vì tiền”) mà còn vì
người dân và quốc gia này có kỷ luật trong việc triển khai, cũng như họ có nền
doanh nghiệp nội đủ mạnh mẽ. Đài Loan không chỉ có TSMC, họ còn có “hệ sinh
thái TSMC” kéo dài sang vật liệu, thiết bị, thiết kế và kiểm định. Một điều
không kém phần quan trọng là người lao động Đài Loan có trình độ học vấn cao và
các công việc liên quan đến chất bán dẫn được trả lương hậu hĩnh. Đối với một người
Đài Loan, làm việc tại TSMC hoặc các công ty tương tự được coi là một công việc
danh giá với tương lai tươi sáng.
Bài học rút ra cho Việt Nam là phải kiên nhẫn
xây dựng chuỗi phụ trợ và thể chế đủ “độ tin cậy”, có tính hỗ trợ cao, minh
bạch và an toàn với nhà đầu tư dài hạn. Song song đó, việc đào tạo các
chuyên gia có năng lực, kỹ năng và ngoại ngữ tốt cũng là những đòi hỏi bắt
buộc.
***
Kết lại, những nỗ lực đầu tư cho công nghệ của
Việt Nam hoàn toàn có thể tạo nên những bước ngoặt với triển vọng cao. Điều này
đã được thể hiện qua quy mô doanh thu công nghệ số, vị thế xuất khẩu công nghệ
cao theo tỷ trọng thương mại và dòng vốn bán dẫn chất lượng cao đang dịch
chuyển vào khu vực.
Nhưng để có thể “hoá rồng” trước hoặc vào năm
2045, Việt Nam cần gia tốc R&D lên mặt bằng mới, tập trung vài cụm ưu tiên
có thực lực, chuẩn hóa đào tạo nhân lực bán dẫn và trí tuệ nhân tạo theo chuẩn
quốc tế, và gắn chặt ưu đãi FDI với chuyển giao công nghệ và nội địa hóa theo
lộ trình. Khi đó, công nghệ mới thật sự là lực lượng dẫn dắt và tạo đà cho Việt
Nam phát triển và hội nhập mạnh mẽ về công nghệ nói riêng và kinh tế nói chung.
No comments:
Post a Comment