Thursday, October 2, 2025

NGÀY 30 THÁNG TƯ, NGÀY LƯU VONG (Henri Copin | Trà Mi - DCVOnline.net)

 



 

Ngày 30 tháng Tư, Ngày Lưu Vong

Henri Copin | Trà Mi

Posted on September 29, 2025   

https://dcvonline.net/2025/09/29/ngay-30-thang-tu-ngay-luu-vong/

 

Trong phóng sự đặc biệt này về Chiến tranh Việt Nam, Henri Copin đã sưu tầm những chứng từ trong cộng đồng người gốc Việt sống ở hải ngoại, những ký ức cá nhân của những người vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 buộc phải rời bỏ quê hương. Chúng tôi chọn giữ ẩn danh cho những chứng từ này.

 

Năm mươi năm trước: “Sự sụp đổ của Sài Gòn, thống nhất, giải phóng, ngày quốc hận…” Đó là những cách gọi ngày 30 tháng 4 khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Tất cả đều nói đến cuộc xung đột như một vết rạn nứt, kiểu rạn nứt của những cuộc nội chiến, với ký ức đối nghịch buộc phải được viết lại theo cách khác nhau.

 

Lịch sử chính thống của chế độ cộng sản ở Việt Nam hiện tại, dựa trên những lễ tưởng niệm, những cuộc diễn binh, và nghi lễ, góp phần tạo dựng một “diến ngôn quốc gia.” Đó là một cấu trúc mang tính trình diễn, nhằm củng cố sự đoàn kết dân tộc, đồng thời hợp pháp hóa vai trò của những người cầm quyền và những lựa chọn chính trị của họ.

 

Lịch sử chính thống này có thể đã che mờ một lịch sử khác: lịch sử của những kẻ chiến bại, của bên thua cuộc. Dù bị cướp mất, bị lãng quên hoặc bị phủ nhận, nó vẫn trồi dậy bằng nhiều con đường, hướng đến việc “,” như bài xã luận trong số Cahiers du Nem này nhắc nhở.

 

Diễn ngôn tưởng niệm thuộc về lịch sử trong chừng mực nó tự nhận là đúng, có khoảng cách, được kiến tạo, đồng thời cũng mang tính phê phán. Nó nhằm rèn đúc một bản sắc tập thể.

 

Nhưng song song với những diễn ngôn ấy, ký ức cá nhân vẫn hiện hữu và bền bỉ. Gồm những mảnh rời rạc, cảm xúc, phi lý trí và không thể xóa nhòa, chúng nhắc lại chiều sâu của biến cố đã trải qua, tạo thành nền tảng của lịch sử, đôi khi bị bỏ quên, tức là chất liệu thô cho sử gia.

 

Vậy nên, lịch sử (tập thể) và ký ức (cá nhân) vừa khác biệt, vừa bổ túc, đôi khi lại đối nghịch với nhau.

 

Dưới đây là một số chứng từ của một số trong cộng đồng người gốc Việt sống ở hải ngoại. Họ gợi nhắc ngày 30 tháng 4 năm 1975. Với nhiều người, đó là khởi đầu của cuộc sống lưu vong. Đó là một ngày vẫn nhớ mãi. Xin ghi lại nguyên văn như đã nhận được, mỗi chứng từ đều độc nhất và chân thực trong tính riêng biệt của nó.

 

Sau đây là những câu hỏi:

 

Mối liên hệ giữa ký ức cá nhân và ký ức lịch sử là gì? Anh/chị nhớ thế nào về tin tức ngày 30 tháng 4 năm 1975? Ở đâu và bằng cách nào anh/chị biết được? Lời báo tin ấy ảnh hưởng ra sao? Những cảm xúc, ấn tượng nào đã trải qua? Và hôm nay thì sao?


1.

 

https://dims.apnews.com/dims4/default/f1a204c/2147483647/strip/true/crop/3600x2399+0+65/resize/980x653!/format/webp/quality/90/?url=https%3A%2F%2Fassets.apnews.com%2F5d%2F7a%2Fbcae20174fe5bfb31742022dabff%2Fvietnam-war-ends-4-30-1975.jpg

Quân đội Bắc Việt chiến thắng trên xe tăng chiếm lĩnh vị trí trên sân Dinh Độc Lập ở Sài Gòn, ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày chính quyền miền Nam đầu hàng, chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Cờ Cộng sản (MTDTGPMN) tung bay trên dinh và xe tăng. (Ảnh AP/Yves Billy)

 

“Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi 25 tuổi và đã xa Việt Nam mười năm. Với tôi, điều đó không phải là tất yếu, mà là kết cục chẳng đáng ngạc nhiên trước tình trạng hỗn loạn của đất nước. Tôi vừa hoàn tất chương trình kỹ sư, cầm bằng trong tay, bắt đầu công việc tại một công ty ở tỉnh bang. Gia đình tôi ở Việt Nam chẳng còn ai, đã tản mác bốn phương: Canada, Pháp, Mỹ. Đó mới là bi kịch thật sự với tôi. Thêm vào đó là những hình ảnh trên hệ thống truyền thông, không cảm xúc, không đồng cảm… chỉ là những hình ảnh khốn cùng của con người… mà hiếm khi, nếu không muốn nói là chưa từng thấy!

Một khoảng trống khổng lồ trong đầu, cảm giác như bị ném vào hư vô.”


2.

“Tôi 30 tuổi, là giáo viên ở Nantes. Tuổi thơ ở Việt Nam và Campuchia chợt ùa về, cùng ký ức về tất cả những người, quen và lạ, đã bỏ chạy, không muốn sống dưới chế độ do miền Bắc áp đặt.

Tôi cảm thấy đau xót và bất lực, bị choáng ngợp vì hình ảnh người ta bỏ chạy trên biển. Ngây thơ, tôi tự nhủ: tôi sẽ nhận nuôi những đứa trẻ mà những bà mẹ trao vội cho người vượt thoát. Một cảm giác thảm họa chồng chất với những hình ảnh tận thế: chiếc trực thăng, chiếc máy bay chở đầy trẻ em (rơi ngay khi cất cánh).

Nỗi tuyệt vọng ấy xóa sạch khả năng phân tích. Tôi cũng nghĩ đến tất cả những người đã sẵn ở cảnh lưu vong—như một màn tập dượt mà tôi đã chứng kiến…”


3.

“Ngày 30 tháng 4 năm 1975, vợ tôi 25 tuổi, tôi 26. Chúng tôi cưới nhau ngày 5 tháng 4, gần Sài Gòn. Chưa đầy ba tuần trước ngày 30, không gì báo trước sự chấm dứt của một cuộc chiến kinh hoàng kéo dài. Tôi đáp xuống Tân Sơn Nhứt giữa tháng 3. Mọi thứ đều “bình thường” trong đất nước quen với chiến tranh, ít ra trên bề mặt. Nhiều người bên ngoại tôi là lính trong quân đội miền Nam. Kết thúc chiến tranh làm đảo lộn đời họ: trại cải tạo, một tuần cho lính thường, đến ba năm cho sĩ quan. Rồi việc lặt vặt cho kẻ kém may, trầm cảm cho người kém may hơn, vượt biên cho một số, xoay xở cho tất cả trong một đất nước điêu tàn.

Sức mạnh ngu xuẩn nuôi cái tôi, mọi thứ trở thành cái cớ để chia rẽ và tăng đối kháng. Chiến tranh luôn là thua thiệt đôi bên, khinh miệt, tàn bạo, nhục nhã, vực thẳm và khốn cùng, kèm nỗi đau tinh thần cho tất cả.

Chúng tôi trở lại Việt Nam năm 1979. Cả nước chìm trong tuyệt vọng. Hơn nữa, Trung Hoa còn muốn “dạy cho Việt Nam một bài học.” Hôm nay, Việt Nam đã khá hơn nhiều.”


4.

https://cdn.mos.cms.futurecdn.net/sRnHPMCPhjyEfnnf6pzhgK-1920-80.jpg.webp

Khoảng 10.000 công dân Việt Nam đã cố gắng vào Tòa Đại sứ Mỹ để di tản, nhưng chỉ một số ít vượt qua được bức tường. (Nguồn ảnh: Bettmann / Người đóng góp / Getty Images)

 

“Một ngày sẽ mãi mãi in dấu trong ký ức dân tộc sống trên dải đất hình chữ S, S của Servitude (nô lệ), S của Sursaut (bừng tỉnh), của Survival (sinh tồn), của Wisdom (khôn ngoan) hay Souvenirs (ký ức)…”


“30 tháng 4, 1975! Một ngày đánh dấu… Giải phóng Sài Gòn, chấm dứt 30 năm chiến tranh, thống nhất Việt Nam. Khởi đầu một cuộc sống mới cho người Việt Nam. Với đất nước và dân chúng, đó là ngày kỷ niệm vinh quang, ngày lễ hội. Nhưng với cá nhân tôi, ngày ấy chỉ gợi buồn và đau, vì nhắc đến gia đình còn kẹt lại Sài Gòn.

 

Như bao lần khác, lịch sử do kẻ chiến thắng viết. Kẻ thua bị quên lãng, chẳng ai bận tâm đến số phận của họ. Có thể chấp nhận điều đó nếu chỉ liên quan đến chế độ cũ, lãnh đạo hay người ủng hộ. Nhưng còn thường dân miền Nam thì sao?

 

Đa số không có quan điểm chính trị; họ vẫn sống, làm việc, buôn bán, đi chơi. Người miền Nam vốn hiền hòa. Họ chấp nhận và chịu đựng thế nào cảnh “giam hãm,” giám sát, và đủ loại hạn chế do chính quyền mới áp đặt? Tôi muốn biết những người đã vượt biển, vượt biên, những thuyền nhân còn sống sót, nay ra sao. Tôi từng giúp một số người và còn giữ liên lạc.

 

Quay lại ngày 30 tháng 4, 1975—một bí mật. Với tôi, đó là ngày “nguyền rủa,” buồn vô tận, vì với gia đình tôi ở Sài Gòn, nó đánh dấu sự tan nát, sụp đổ của cả dòng họ.

 

Tôi đã ở Paris 12 năm… về vật chất, chẳng tảnh hưởng gì đến tôi. Nhưng với gia đình—mẹ tôi (cha tôi đã mất nhiều năm trước), anh tôi, vợ của anh và bốn con, cùng em gái và ba đứa nhỏ—đó là thảm họa toàn diện! Gần như chỉ sau một đêm, chúng tôi mất hết: nhà cửa, ruộng đất, ruộng lúa, tất cả gia sản, đều bị đảng cộng sản tịch thu.

 

Gia đình rơi vào cảnh không nhà… không người chủ gia đình. Anh tôi bị đưa vào trại tù cải tạo. Vợ anh, những đứa con, và mẹ tôi, lang thang ngoài đường. Em gái tôi can đảm cùng con trốn thoát , thành thuyền nhân… Sau nhiều gian truân, em xin được Canada cứu giúp.

Ngày nay, ngoài hai cháu gái ở Canada, tôi chẳng còn ai thân thuộc. Tôi thoát khỏi biến cố ấy. Định mệnh, có lẽ! Ngày 30 tháng 4, 1975, in hằn suốt đời tôi. Lời thú nhận này làm tôi nhẹ nhõm.”


6.

“Trong hai mươi năm, tôi đã xóa ngày 30 tháng 4, 1975, khỏi ký ức, chỉ nghĩ đến tương lai của Việt Nam, góp phần trong khả năng khiêm tốn trí tuệ và tài chính cho công cuộc tái thiết. Tôi tin đó cũng là mong muốn của đa số người Việt.

 

Hình ảnh chẳng bao giờ biến mất hoàn toàn, nhất là khi chúng gây đau thương.

 

Năm 1991, khi tôi được mời về giúp Việt Nam, tôi gọi điện báo cho cha tôi, khi ấy sống ở Tourcoing cùng mẹ và em gái. Cả ba người đã đến đây như những thuyền nhân cuối năm 1975.

 

Ông nổi giận, gọi tôi là kẻ phản bội gia đình, đã chịu quá nhiều đau khổ vì cộng sản (đặc biệt bà nội tôi, còn ở miền Bắc khi chúng tôi chạy vào Nam năm 1954, đã bị ném đá đến chết năm 1956 trong “tòa án nhân dân” trước làng; tội của bà: là chủ 3 sào ruộng).

Nhưng ba ngày sau, cha tôi gọi lại xin lỗi, nói: “Con đúng, cứ đi đi, đất nước cần con để tái thiết.”

 

Thế là tôi về Việt Nam công tác gần như mỗi năm, từ 1991 đến 2015. Tôi đã xóa được ngày 30 tháng 4, 1975, khỏi ký ức.”


7.

https://www.usatoday.com/gcdn/authoring/authoring-images/2025/03/25/USAT/82655902007-getty-images-450099556.jpg?width=1320&height=888&fit=crop&format=pjpg&auto=webp

Người dân Sài Gòn di tản khỏi thủ đô miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ảnh: AFP qua Getty Images

 

“Với chúng tôi, ngày 30 tháng 4 là ngày thống nhất, như ngày 3 tháng 10 ở Đức. Hàng triệu người Việt vui mừng, nhưng dĩ nhiên cũng có vài triệu người buồn. Thế đấy, đó là lịch sử và cuộc đời.”


8.

https://api.time.com/wp-content/uploads/2015/04/cambodia.jpeg?quality=85&w=1200

Những người lính du kích Khmer Đỏ trẻ tuổi tiến vào Phnom Penh vào ngày 17 tháng 4 năm 1975. Ảnh: Sjoberg / AFP / Getty Images

 

“Tôi đang làm bác sĩ ở Pháp khi, vào tháng Tư năm 1975, những biến cố bi thảm ở Cam Bốt và Việt Nam bùng nổ. Tất cả chúng tôi đều chăm chú nghe những tin tức báo động và đoán chắc một kết cục đẫm máu.

 

Tại Cam Bốt, chúng tôi theo dõi tin tức qua truyền hình và đọc báo Le Monde để hiểu về bước tiến không thể ngăn cản của Khmer Đỏ và cộng sản Bắc Việt. Chúng tôi cảm thấy hồi kết đang đến gần. Ở Nice, anh trai tôi, cũng là bác sĩ, đã cố gắng “giữ lại” một vị tướng Khmer bằng cách cho ông vào bệnh viện để làm những xét nghiệm tim mạch, nhưng vô ích, vì một số sĩ quan vẫn tin tưởng vào một chiến thắng cuối cùng. Tôi có những người bạn thân, như Kanel, người mà tôi đã cùng học suốt những năm ở trung học Descartes và hai năm đầu đại học y khoa. Anh là một bác sĩ quân y, và tôi hy vọng anh cùng gia đình đã kịp thoát thân, cũng như nhiều bạn học người Việt, Hoa và Khmer của tôi.

 

Ngày 17 tháng Tư năm 1975, các bản tin chiếu cảnh những người Khmer Đỏ trẻ tuổi lặng lẽ tiến vào, quấn khăn krama đỏ trắng hoặc đỏ xanh, tay cầm súng Kalashnikov, vượt qua cầu Monivong trên bờ sông Tonle Sap. Họ bắn loạt đạn chỉ thiên và ra lệnh cho dân chúng thu xếp đồ đạc chuẩn bị một cuộc di tản cưỡng bức; người Mỹ sắp oanh tạc thành phố! Chúng tôi thấy và thấy lại những hình ảnh một cuộc di tản hàng loạt trong hỗn loạn tận thế. Đường phố nghẹt cứng dòng người đi bộ mang theo túi xách, xe đạp, xe gắn máy, và từng đoàn xe chở gia đình cùng hành lý.

 

Chỉ 13 ngày sau, Sài Gòn thất thủ. Quân miền Bắc đã ở ngoại ô Sài Gòn. Đám đông chen chúc trèo qua cổng, tay xách va-li, ba-lô, bồng bế con trẻ. Bi kịch diễn ra trước ống kính. Trực thăng đáp xuống nóc tòa đại sứ rồi cất cánh, mang theo từng nhóm người; tiếng la hét, khóc lóc vang dậy.

 

Truyền hình quay cảnh trực thăng đáp xuống, rồi bị xô xuống biển để nhường chỗ cho người tị nạn, trong khi ở Sài Gòn, giao tranh trên đường phố ngày càng áp sát. Rồi một chiếc xe tăng cộng sản tiến vào, húc tung cổng Dinh Độc Lập.

 

Liệu sự đàn áp sẽ kinh hoàng? Không hẳn, không có tàn sát, không có trại gulag, nhưng là “tù cải tạo”. Những cộng tác viên và nhiều người khác phải về nông thôn hay rừng núi để được “cải tạo”, thực chất là chết dần chết mòn. Rồi sẽ đến cuộc di tản của thuyền nhân, ra Biển Đông, đối mặt với hải tặc, chết đuối, hãm hiếp, và những cuộc ly tán.

 

Năm 1994, chúng tôi trở lại Việt Nam. Sài Gòn cũ kỹ, tàn tạ, như một bức ảnh bị đông cứng, nhưng tôi vẫn nhận ra thành phố từng quen thuộc. Có vẻ yên tĩnh, thậm chí im lìm, nhưng những chấn động tinh thần hiện diện ở mọi góc phố. Ăn mày, đàn ông, các bà lão, rách rưới, gầy còm. Ở những góc đường, từng nhóm trẻ mồ côi, con lai da trắng hoặc da đen, tụ tập để sinh tồn. Cảnh tượng vừa đau xót vừa buồn thảm, nhưng cùng lúc tôi có thể đoán được tương lai của họ. Người già sẽ chết, kẻ trẻ sẽ sống sót trong bạo lực.

 

Hai con trai chúng tôi kinh ngạc trước ảnh hưởng của chiến tranh đối với cả một dân tộc. Con trai lớn sau đó trở lại cùng đồng nghiệp y khoa trong một dự án sáu tháng, còn cậu thứ hai quyết định trở thành luật sư quốc tế chuyên về nhân quyền, và viết luận văn về trẻ em Việt Nam. Riêng tôi, năm 2010, tôi đến Cam Bốt cùng một đồng nghiệp để làm việc, nhưng chưa bao giờ muốn tham dự những phiên tòa xử những kẻ chịu trách nhiệm về tội ác diệt chủng. Quá nhiều ký ức tồi tệ!”

 

https://media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2024/11/19/ed-kashi/05h.webp

Giống như nhiều doanh nhân khác ở thành phố này, một người dân Sài Gòn dùng xích lô chở ngỗng ra chợ, vào ngày 15 tháng 3 năm 1994. Cơn sốt xe gắn máy ở Sài Gòn là một trong những dấu hiệu báo trước sự hồi sinh về văn hóa và kinh tế của Việt Nam. Tác giả: Ed Kashi/VII/Redux | © Ed Kashi / VII / Redux


9.

“Năm mươi năm trước, cha mẹ tôi bay từ Lào sang Pháp. Câu chuyện của họ gợi lại hành trình của nhiều người Việt Nam thời ấy. Cha tôi là bác sĩ và từng phục vụ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Mẹ tôi xuất thân từ một gia đình truyền thống và từng trọ học tại Couvent des Oiseaux ở Hà Nội trước năm 1954, rồi ở Đà Lạt. Sau đó, bà làm việc ở Vientiane, nơi cha tôi đến đoàn tụ với bà. Khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, họ đã rời đi trên một trong những chuyến bay cuối cùng đến Paris. Cha tôi tìm được việc làm. Họ gây dựng lại cuộc sống và vẫn luôn mang ơn sâu nặng nước Pháp đã đón nhận họ. Tuy vậy, họ vẫn giữ một tình cảm gắn bó mãnh liệt với Việt Nam, và đã cưu mang những người em họ còn trẻ, con của những cha mẹ bị cộng sản bỏ tù. Hai người trong số đó đã sống cùng chúng tôi hơn mười năm.”

 

© 2025 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: 30 avril, jour d’exil | Henri Copin | Les Cahiers Du Nem – septembre 14, 2025. DCVOnline trình bầy.





No comments: