Chiến lược chống
Trung Quốc mà Lầu Năm Góc còn thiếu
Seth G. Jones - Foreign Affairs
Viên Đăng Huy, biên dịch
03/10/2025
https://nghiencuuquocte.org/2025/10/03/chien-luoc-chong-trung-quoc-ma-lau-nam-goc-con-thieu/
Vào giữa những năm 2010, các quan chức Lầu
Năm Góc đã cảm thấy báo động trước những tiến bộ quân sự mà Trung Quốc và Nga
đang đạt được. Cả hai quốc gia này đều đầu tư vào các năng lực tác chiến mạng,
không gian và tác chiến điện tử, cũng như vũ khí dẫn đường chính xác và vũ khí
tầm xa trên mặt đất. Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Work đặc biệt lo ngại về
Trung Quốc, quốc gia mà ông xác định là đang cố gắng đạt được sự cân bằng với Mỹ
về công nghệ quân sự. Trung Quốc đã phát triển DF-21D, một tên lửa đạn đạo chống
hạm có tầm bắn gần 1.000 dặm, được mệnh danh là “sát thủ tàu sân bay”, gây ra mối
đe dọa cho các tàu của Mỹ—bao gồm cả tàu sân bay—ở Thái Bình Dương. Đã đến lúc,
Work và những người khác ở Lầu Năm Góc kết luận, phải hình dung ra một cuộc chiến
ở Thái Bình Dương có thể sẽ trông như thế nào và xem xét cách Mỹ sẽ giành chiến
thắng.
Lấy cảm hứng từ cái gọi là chiến lược bù đắp
(offset strategies) mà Mỹ đã phát triển để đối phó với Liên Xô trong Chiến
tranh Lạnh, Work đã đề xuất một “chiến lược bù đắp thứ ba” để chống lại những lợi
thế của Trung Quốc ở Thái Bình Dương. Quân đội Mỹ bắt đầu soạn thảo các khái niệm
tác chiến mới, chẳng hạn như Tác chiến Hàng hải Phân tán (Distributed Maritime
Operations) của Hải quân, bao gồm việc dàn trải lực lượng trên một khu vực rộng
lớn và phát triển các loại vũ khí tầm xa. Lầu Năm Góc cũng bắt đầu xác định những
loại vũ khí, hệ thống và thiết bị mà họ sẽ cần mua, thúc đẩy các khoản đầu tư mới
vào năng lực không gian, cảm biến tiên tiến, và một loạt các công nghệ đầy hứa
hẹn, chẳng hạn như thủy lôi tiên tiến. Chiến lược bù đắp thứ ba, theo mô tả của
Work, là sự “kết hợp giữa công nghệ, khái niệm tác chiến và cấu trúc tổ chức—những
cách khác nhau để tổ chức lực lượng của chúng ta—để duy trì khả năng triển khai
sức mạnh chiến đấu vào bất kỳ khu vực nào tại thời điểm và địa điểm do chính
chúng ta lựa chọn”.
Nhưng theo nhiều cách, chiến lược bù đắp thứ
ba của Work đã đi trước thời đại một thập kỷ. Vào thời điểm đó, Mỹ vẫn là siêu
cường đứng đầu. Cả Trung Quốc lẫn Nga đều không sở hữu một lợi thế quân sự đáng
kể nào so với Mỹ—nói cách khác, không có nhiều thứ để quân đội Mỹ phải bù đắp.
Mặc dù lời kêu gọi hành động của Work đã truyền cảm hứng cho nhiều sáng kiến
khác nhau, nhưng nó chưa bao giờ hình thành hoàn chỉnh một cách mạch lạc hoặc
khẩn cấp.
Ngày nay, tình hình đã khác biệt nghiêm trọng.
Cơ sở công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc đang ở trong trạng thái thời chiến,
sản xuất phần cứng và phần mềm với tốc độ mà Đô đốc Samuel Paparo, người đứng đầu
Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ, gọi là “tốc độ đáng báo động”.
Năng lực đóng tàu quân sự và thương mại của Trung Quốc lớn hơn khoảng 230 lần
so với Mỹ, và năng lực tên lửa tầm xa của họ đã tăng vọt trong hai thập kỷ qua.
Điều này có nghĩa là Trung Quốc đang gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với
quân đội Mỹ trong khu vực hai chuỗi đảo bao quanh sườn biển của Bắc Kinh, trong
đó chuỗi thứ hai kéo dài về phía nam từ Nhật Bản đến Guam, Quần đảo Bắc Mariana
và Palau. Ví dụ, nếu căng thẳng hiện tại về Đài Loan bùng phát thành một cuộc
chiến toàn diện, các lực lượng Mỹ từ Nhật Bản đến Guam sẽ dễ bị tổn thương trước
các cuộc tấn công của Trung Quốc trước khi họ kịp tham chiến.
Tuy nhiên, giống như Liên Xô trong suốt Chiến
tranh Lạnh, Trung Quốc có những điểm yếu có thể khai thác. Đã đến lúc Mỹ phải
nghiêm túc phát triển một chiến lược bù đắp mới. Mặc dù Bắc Kinh đã chiếm vị
trí ưu tiên trong chương trình nghị sự của Washington những năm gần đây, Lầu
Năm Góc vẫn chưa xây dựng được một khái niệm tác chiến hiện đại tương đương với
chiến lược “Tác chiến Không-Lục” mà Mỹ từng dùng để đối phó với Liên Xô tại
trung tâm châu Âu vào thập niên 1970. Cho đến nay, Mỹ phần lớn tập trung vào các
công nghệ mới nổi, chẳng hạn như hệ thống tự hành và trí tuệ nhân tạo.
Công nghệ rất quan trọng, nhưng nó chưa bao
giờ là đủ để giành chiến thắng trong các cuộc chiến. Như Andrew Marshall, người
đứng đầu lâu năm của Văn phòng Đánh giá Tình hình thực tế (Office of Net
Assessment) thuộc Lầu Năm Góc đã lập luận: “Công nghệ mở đường cho cách mạng,
nhưng bản thân cuộc cách mạng chỉ diễn ra khi các khái niệm tác chiến mới phát
triển”. Nói cách khác, Mỹ cần phát triển một khái niệm tác chiến chung—một kế
hoạch sử dụng lực lượng để tiến hành các chiến dịch quân sự cụ thể—và họ cần thực
hiện theo bằng cách thực hiện các khoản đầu tư và mua sắm cần thiết để bù đắp
những lợi thế về số lượng và công nghiệp của Bắc Kinh. Nếu không làm như vậy, Mỹ
có nguy cơ thua trong một cuộc chiến với Trung Quốc.
Cái nhìn mới
Mỹ đã từng làm điều này trước đây. Trong Chiến
tranh Lạnh, Mỹ đã thành công trong một số nỗ lực lớn nhằm bù đắp trước những lợi
thế của Liên Xô. Nỗ lực đầu tiên là Chính sách Cái nhìn Mới (New Look) của
chính quyền Eisenhower, liên quan đến việc chống lại lợi thế số lượng đáng kể của
Hồng quân ở trung tâm châu Âu. Vào những năm 1950, Liên Xô có số lượng lực lượng
mặt đất ở châu Âu gần gấp ba lần so với Mỹ và các đồng minh, và họ đang xây dựng
một cơ sở công nghiệp hùng mạnh.
Nhưng thay vì triển khai và duy trì một đội
quân thường trực lớn ở châu Âu, điều có thể làm tê liệt nền kinh tế Mỹ, Tổng thống
Dwight D. Eisenhower và chính quyền của ông đã phát triển Cái nhìn Mới: kế hoạch
xây dựng một lợi thế hạt nhân áp đảo và lên kế hoạch, trong trường hợp xảy ra
chiến tranh, sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật chống lại quân đội Hồng quân,
kể cả bên trong Tây Đức. Như đã được mô tả trong tài liệu chính sách của chính
quyền NSC 162/2, mà Eisenhower đã phê duyệt vào tháng 10 năm 1953, Mỹ sẽ phát
triển khả năng gây ra “thiệt hại trả đũa khủng khiếp bằng sức mạnh tấn công”. Mục
tiêu là tăng cường khả năng răn đe và thuyết phục Liên Xô không phát động chiến
tranh, nhưng Mỹ vẫn phải chuẩn bị sẵn sàng trong trường hợp xảy ra xung đột.
Chính sách Cái nhìn Mới được hỗ trợ bằng việc
mua sắm mới vũ khí hạt nhân và máy bay ném bom tầm xa. Ví dụ, vào năm 1956,
Eisenhower đã thúc đẩy Quốc hội thông qua yêu cầu tăng cường sản xuất B-52 từ
17 lên 20 máy bay mỗi tháng, cùng với nguồn vốn bổ sung cho nghiên cứu tên lửa
và mở rộng cơ sở vật chất cho B-52. Kết quả đã thành công áp đảo: Liên Xô đã bị
răn đe ở trung tâm châu Âu, và đến những năm 1960, Mỹ nắm giữ vị trí dẫn đầu vượt
trội so với Liên Xô về tên lửa—bao gồm cả tên lửa hạt nhân.
Tuy nhiên, một thập kỷ sau, Mỹ có nguy cơ mất
đi lợi thế răn đe đó do việc cắt giảm quốc phòng của Mỹ và những tiến bộ của
Liên Xô. Liên Xô đã đạt đến ngưỡng cân bằng hạt nhân với Mỹ và có lợi thế ba chọi
một về năng lực thông thường ở trung tâm châu Âu. Để đáp lại, Bộ trưởng Quốc
phòng Harold Brown và Thứ trưởng Quốc phòng về Nghiên cứu và Kỹ thuật William
Perry dưới thời Tổng thống Jimmy Carter đã lãnh đạo một chiến lược bù đắp thứ
hai.
Brown và Perry nhận ra rằng họ có thể đánh bại
lực lượng Liên Xô đang cố gắng xâm lược Tây Âu nếu họ có thể tấn công hiệu quả
các lực lượng hậu phương, hoặc những lực lượng tiếp viện cho tiền tuyến, bằng độ
chính xác cao. Cái gọi là chiến lược bù đắp thứ hai, bao gồm khái niệm Tác chiến
Không-Lục, đã chuyển hướng ưu tiên sang việc trang bị vũ khí tàng hình và có độ
chính xác cao, chẳng hạn như máy bay F-117 Nighthawk, đạn chống tăng dẫn đường
bằng laser Copperhead, và nhiều loại bom và tên lửa dẫn đường chính xác khác
nhau.
Chính quyền Reagan tiếp tục triển khai các nỗ
lực này trong suốt thập niên 1980 trong khi Moscow theo dõi với sự lo ngại. Năm
1981, Đại tướng Liên Xô Nikolai Ogarkov và các nhà lãnh đạo Liên Xô khác đã tiến
hành một cuộc tập trận lớn, gọi là Zapad-81, để xem lực lượng Liên Xô sẽ đối
phó như thế nào với chiến lược mới của Mỹ. Sau đó, Bộ trưởng Quốc phòng Dmitri
Ustinov nói rằng cán cân quân sự giữa NATO và Khối Warszawa “hiện tại không có
lợi cho chúng ta”.
Chiến lược bù đắp thứ ba
Việc phát triển một chiến lược bù đắp thành
công có hai giai đoạn rõ rệt: thứ nhất, xác định một khái niệm tác chiến, hoặc
kế hoạch cụ thể, để đánh bại đối thủ; thứ hai, xác định, phát triển và triển
khai các loại vũ khí, hệ thống và thiết bị mà khái niệm tác chiến đó yêu cầu.
Thực hiện các bước này theo thứ tự sẽ gửi đi một thông điệp rõ ràng và tăng cường
khả năng răn đe.
Nếu mục tiêu của Mỹ là ngăn chặn một cuộc xâm
lược Đài Loan của Trung Quốc, thì việc hình dung xem điều đó sẽ diễn ra như thế
nào là rất hữu ích. Một cuộc chiến gần đại lục Trung Quốc như vậy sẽ là một thử
thách lớn đối với quân đội Mỹ vì khả năng Trung Quốc có thể triển khai một số
lượng lớn tên lửa, máy bay, tàu và các năng lực khác trong cuộc chiến. Quân đội
Trung Quốc (PLA) cũng sẽ gặp khó khăn vì họ sẽ phải di chuyển một lượng lớn
binh lính, vũ khí và trang thiết bị thông qua đổ bộ đường biển, tấn công đường
không, đổ bộ đường không, hoặc sự kết hợp của các cách này. Những binh lính đầu
tiên đổ bộ sẽ phải giành được một chỗ đứng trên lãnh thổ Đài Loan trước khi cho
phép các lực lượng PLA tiếp theo đổ vào Đài Loan. Mỹ sẽ cần phải hành động
trong vòng vài giờ hoặc vài ngày để ngăn chặn Trung Quốc chiếm lãnh thổ, và họ
sẽ cần có khả năng tấn công nhanh chóng vào trung tâm lực lượng xâm lược của
PLA, đánh bật họ khỏi bất kỳ lãnh thổ nào họ đã giành được.
Do đó, Mỹ cần tăng cường và mở rộng thế bố
trí lực lượng của mình trong khu vực để đáp ứng ngay lập tức với một cuộc xâm
lược của Trung Quốc. Ví dụ, Mỹ có thể triển khai thêm máy bay ném bom đến các
căn cứ ở Úc, củng cố các hầm trú ẩn cho máy bay tại các địa điểm như Căn cứ
Không quân Kadena ở Nhật Bản, thiết lập phòng thủ chủ động cho tên lửa ở Guam,
và tích trữ nhiên liệu, phụ tùng, đạn dược và các trang thiết bị khác trên khắp
Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể sử dụng được cho một cuộc chiến.
Để Mỹ thực hiện các cuộc tấn công nhanh chóng
vào các lực lượng Trung Quốc, họ sẽ phải có khả năng phát hiện tất cả các mục
tiêu PLA có giá trị cao trên chiến trường bất cứ lúc nào, tấn công các mục tiêu
với số lượng lớn và độ chính xác cao, và tiêu diệt bất kỳ mục tiêu nào có thể bị
tấn công. Những mục tiêu như vậy bao gồm tàu tấn công đổ bộ, tàu đổ bộ, trực
thăng tấn công đường không, và máy bay chở binh lính, hệ thống vũ khí và phòng
không của PLA, cũng như các trung tâm chỉ huy và kiểm soát tác chiến hỗ trợ lực
lượng xâm lược. Mỹ sẽ cần tạo ra sức mạnh chiến đấu có thể hoạt động cả bên
trong và bên ngoài tầm bắn của hệ thống tấn công của Trung Quốc. Như Đô đốc
Paparo đã nhận xét: “Tôi muốn biến Eo biển Đài Loan thành một tử địa không người
bằng cách sử dụng một số năng lực đã được phân loại để tôi có thể khiến đối
phương khốn khổ cùng cực trong vòng một tháng giúp câu giờ cho chúng ta chuẩn bị
mọi thứ còn lại”.
Điều này sẽ đòi hỏi một sự gia tăng lớn trong
kho dự trữ của Mỹ về tên lửa tầm xa dẫn đường chính xác có thể tấn công các tàu
và máy bay của PLA. Tên lửa chống hạm tầm xa hiệu quả chống lại các mục tiêu
PLA, nhưng chúng đắt tiền với hơn 3 triệu USD mỗi quả tên lửa, và Mỹ không có đủ
chúng. Mỹ cần tăng cường nghiên cứu, phát triển và sản xuất tên lửa tầm xa—đặc
biệt là tên lửa chống hạm để tấn công các tàu mặt nước của PLA—mà có giá rẻ
hơn. Mỹ cũng sẽ cần nhiều hệ thống drone tương đối rẻ hơn, đặc biệt là những
chiếc không cần đường băng để triển khai.
Tuy nhiên, máy bay có người lái vẫn quan trọng,
đặc biệt là máy bay ném bom và máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ năm và thứ
sáu. Tầm hoạt động và khả năng tấn công của máy bay ném bom tàng hình như B-21
Raider đặt ra một thách thức đặc biệt đáng gờm đối với Trung Quốc. Những chiếc
máy bay này có thể triển khai từ các căn cứ ngoài tầm bắn của tên lửa đạn đạo
Trung Quốc, và chúng có thể mang theo bom thông thường và hạt nhân đáng kể để
làm suy yếu lực lượng Trung Quốc. Một số máy bay tàng hình thế hệ thứ năm và thứ
sáu như F-35 cũng hữu ích vì tốc độ, bộ cảm biến và khả năng tấn công của chúng
cho phép chúng triển khai bên trong chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai cho các nhiệm
vụ không đối không và không đối đất, cũng như để thu thập và chia sẻ dữ liệu
chiến trường giữa các lực lượng mặt đất, không quân và hải quân.
Cuối cùng, Mỹ cần sự kết hợp giữa tàu ngầm tấn
công hạt nhân lớn và drone dưới nước giá rẻ. PLA tương đối yếu trong lĩnh vực
dưới đáy biển và gặp khó khăn trong việc phát hiện, xác định và theo dõi tàu ngầm
Mỹ. Ví dụ, trong nhiều lần mô phỏng chiến tranh của Trung tâm Nghiên cứu Chiến
lược và Quốc tế, tàu ngầm Mỹ đã gây ra sự tàn phá đối với các tàu Trung Quốc,
bao gồm các tàu đổ bộ lớn, tàu hộ tống và tàu hậu cần. Mỹ phải dựa vào lợi thế
dưới đáy biển này và ưu tiên duy trì nó.
Tập trung vào cuộc chiến
Các năng lực khác cũng quan trọng, chẳng hạn
như phần mềm tận dụng trí tuệ nhân tạo thế hệ tiếp theo, cho phép quân đội Mỹ
chia sẻ lượng lớn dữ liệu nhanh chóng giữa các lực lượng. Nhưng tương lai của
chiến tranh không chỉ là về hệ thống không người lái, trí tuệ nhân tạo và các
công nghệ khác. Năng lực quân sự của Mỹ cần phải được dựa trên một chiến lược
tác chiến khả thi. Việc phát minh ra công nghệ hoặc là quốc gia đầu tiên sử dụng
công nghệ chưa bao giờ đảm bảo một lợi thế trên chiến trường. Các kỹ sư người
Anh tại William Foster & Co. đã phát triển và sản xuất xe tăng. Nhưng chính
các sĩ quan quân đội Đức, chẳng hạn như Heinz Guderian, đã sử dụng xe tăng với
hiệu quả tàn khốc trong các chiến dịch chiến tranh chớp nhoáng trong Thế chiến
II.
Cũng có nhiều thứ mà Mỹ sẽ không cần cho một
cuộc xung đột tiềm tàng với Trung Quốc, chẳng hạn như số lượng lớn tàu mặt nước
và tàu sân bay, những khí tài dễ bị tổn thương và bị phát hiện cao trong chiến
tranh. Mỹ cũng vẫn đang đầu tư vào hệ thống mặt đất, chẳng hạn như xe tăng, những
thứ sẽ không cần thiết cho cuộc chiến này. Một chiến lược bù đắp tập trung vào
Trung Quốc, tất nhiên, không loại trừ việc chuẩn bị cho các tình huống bất ngờ ở
những nơi khác, chẳng hạn như chống lại Nga ở đông Âu, Iran ở Trung Đông hoặc
Triều Tiên trên Bán đảo Triều Tiên. Nhưng điều đó có nghĩa là Mỹ cần ưu tiên
đánh bại và răn đe Trung Quốc, giống như cách Mỹ đã tập trung vào Liên Xô trong
Chiến tranh Lạnh.
-----------------------
SETH G. JONES là Chủ tịch Khoa Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), đồng thời là tác giả của cuốn
sách The American Edge: The Military Tech Nexus
and the Sources of Great Power Dominance.
Nguồn: Seth
G. Jones, “The Pentagon’s
Missing China Strategy”, Foreign
Affairs, 26/09/2025
==================
Đông Nam Á đang bắt đầu chọn phe
Yuen Foong Khong và Joseph Chinyong Liow, “Southeast Asia Is
Starting to Choose,” Foreign Affairs, 24/06/2025
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên
dịch - Nghiên Cứu
Quốc Tế - 04/07/2025
https://nghiencuuquocte.org/2025/07/04/dong-nam-a-dang-bat-dau-chon-phe/
Đông Nam Á đang ngày càng chia rẽ?
Susannah Patton, “The Two Southeast Asias,” Foreign
Affairs, 25/09/2025
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch - Nghiên
Cứu Quốc Tế - 01/10/2025
https://nghiencuuquocte.org/2025/10/01/dong-nam-a-dang-ngay-cang-chia-re/
No comments:
Post a Comment