Huỳnh Chí Viễn -
Saigon Nhỏ
6 tháng 1,
2024
https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/di-coi-mua-lan/
Hồi còn nhỏ, đến dịp Tết Nguyên Đán, tôi rất mong được
về Chợ Lớn vì một lý do: Xem múa lân. Sáng 30 Tết, khi mẹ tôi đi chợ chuẩn
bị mâm cơm cúng tổ tiên, ba tôi lại chở tôi trên chiếc xe cub cánh én cũ đi
vòng vòng những con đường lớn ở quận 5 và quận 11 để đón xe múa lân.
Không cần phải chờ quá lâu vì cứ khoảng năm phút mười
phút là tôi đã nghe được tiếng trống lân rộn rã thanh la não bạc trên những chiếc
xe tải được trang trí bằng băng rôn và cờ xí.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/12/tong-su-zkoDBONYcx4-unsplash-1536x1024.jpg
Ảnh: tong-su-zko-unsplash
Trên xe là đội lân độ khoảng 20 người mặc đồng phục áo thun không cổ, in
tên đội lân bằng cả tiếng Hoa lẫn tiếng Việt, thắt lưng vải đỏ quanh bụng, quần
thun thể thao, hoặc quần đen, quấn xà cạp và giày vải. Có nhiều xe còn chở theo
cả một dàn binh khí sáng ngời đầy đủ đại đao, trường thương, kiếm, kích để biểu
diễn võ thuật. Xe đi đến đâu là trống gõ liên hồi đến đó. Tiếng trống làm nên
cái hồn của múa lân. Không có trống, lân không tài nào múa được.
Ngày trước ở Chợ Lớn có hơn ba mươi đội lân lớn nhỏ khác nhau, mỗi đội đều
có tên gồm ba chữ, kết thúc bằng chữ “Đường”, trong đó nổi tiếng nhất là đội
lân Nhân Nghĩa Đường của gia đình võ sư Lưu Kiếm Xương, Thắng Nghĩa Đường của
Trần gia và Hằng Anh Đường của họ Từ.
“Đường” trong tiếng Hoa là gian nhà lớn để mọi người tụ tập về. Đó là những
đội lân của người Quảng Đông theo trường phái Nam Sư. Bên cạnh đó còn có những
đội lân của người Tiều Châu theo trường phái Bắc Sư và những đội múa rồng của
người Phúc Kiến. Tiếng trống của Bắc Sư và tiếng trống múa rồng hoàn toàn khác
tiếng trống lân của người Quảng Đông. Thỉnh thoảng có một vài chiếc xe tải nhỏ
chở đoàn lân với đầu lân nhìn rất lạ, nửa giống rồng, nửa giống tôm mà ba tôi bảo
đó là lân của người Hẹ (Khách Gia).
Sáng 30 Tết là thời điểm mà các đội lân khắp Chợ Lớn chuẩn bị lên đường;
và trước khi đi múa ở đâu đó, tất cả đều tập trung ở chùa bà Nam Hải trên đường
Trần Hưng Đạo B để làm lễ “điểm tinh” cầu phúc. Chỉ cần đến chùa bà Nam Hải
sáng 30 Tết, người mê lân sư rồng sẽ được xem miễn phí tất cả các đội lân về tụ
hội.
Thường thì nhà nào làm ăn lớn như cửa tiệm hoặc cơ sở sản xuất sẽ đón
đoàn lân đến múa vào những ngày Tết để lấy hên. Lân sẽ được ông địa cầm quạt dắt
vào nhà múa vòng quanh nhà để xông đất, sau đó tiến vào trong nhà để lạy bàn thờ
và cuối cùng là màn hấp dẫn nhất “thực thanh”. Gia chủ treo bắp cải có kèm theo
bao lì xì đỏ trên cao trước cửa nhà, người múa lân phải leo lên cây sào để giật
lấy bao lì xì và bắp cải.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/12/pexels-vlad-vasnetsov-2354073-1536x1025.jpg
Ảnh: pexels-vlad-vasnetsov
Múa lân hay múa sư tử?
Một nhầm lẫn khá thú vị mà mãi gần đây tôi mới tìm được lời giải thỏa
đáng là tên gọi và nguồn gốc của con vật mà ta hay gọi là “con lân” và “múa
lân”. Trái với suy nghĩ của nhiều người Việt, người Hoa không gọi là “con lân”
hay “múa lân” mà gọi là “sư tử” và “múa sư tử”. Đây cũng là cách gọi của người
miền Bắc nước ta đối với loại hình nghệ thuật này. Chỉ có người miền Nam từ Huế
trở vào mới gọi là “múa lân” mà thôi.
“Múa lân” theo cách gọi của người miền Nam thực chất bắt nguồn từ điệu
múa tứ linh của cung đình Huế thời Nguyễn, với hình tượng con lân rất giống
hình tượng của Nam Sư (nên mới có sự nhầm lẫn trong cách gọi từ Huế vào đến miền
Nam như vậy). Múa lân của cung đình Huế là điệu múa cầu cho quốc thái dân an và
thịnh vượng, với cao trào là tiết mục “lân mẫu xuất lân nhi” tượng trưng cho sự
sinh sôi nảy nở phồn vinh.
Theo nhiều tài liệu thì nghệ thuật múa sư tử bắt đầu du nhập vào thời
Tùy-Đường theo chân Phật giáo, và phát triển rộng rãi với nhiều phong cách khác
nhau từ thời Tống trở đi. Điều này có vẻ hợp lý vì sư tử không phải là động vật
bản địa Trung Quốc nhưng có mặt ở Ba Tư và Ấn Độ. Đạo Phật thường sử dụng hình ảnh
sư tử để đại diện cho sự uy nghiêm và sức mạnh của Phật Tổ.
Khi đạo Phật du nhập vào Trung Quốc từ Ấn Độ, hình ảnh sư tử cũng bắt đầu
xuất hiện trong văn chương và nghệ thuật. Nghệ thuật múa sư tử của người Trung
Quốc có rất nhiều trường phái nhưng tựu trung chia làm hai trường phái chính,
“Nam Sư” và “Bắc Sư” với phong cách biểu diễn được tóm tắt trong tám chữ “Bắc
Sư kiều diễm, Nam Sư hùng kiện”.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/12/pexels-tuan-kiet-jr-14870976-1536x1024.jpg
Ảnh: pexels-tuấn-kiệt-jr
Bắc Sư đầu và miệng vuông, không có sừng trên đầu, mắt không chớp, miệng
không há ra ngậm vào được (do không có dây kẽm luồn bên trong để người múa đầu
sư tử điều khiển), có bờm dài và lông rậm phủ kín thân (người múa thường mặc
bên ngoài quần kết tua bằng sợi ny lông màu vàng hoặc đỏ). Đây là hình ảnh cách
điệu của con Thanh Mao Tuyết Sư (sư tử tuyết lông xanh).
Tiếng trống của Bắc Sư không mạnh mẽ hùng hồn như tiếng trống Nam Sư mà
khoan nhặt thư thái. Điệu múa của Bắc Sư cũng nhẹ nhàng uyển chuyển và không đa
dạng bằng Nam Sư. Múa lân theo phong cách Bắc Sư không có ông Địa mà có người cầm
quả cầu đi phía trước để lân vờn theo (sư tử hí cầu). Tuyệt kỹ của Bắc Sư là đứng
múa trên quả cầu to. Nó đòi hỏi người múa đầu và người múa đuôi phải phối hợp
ăn ý để giữ thăng bằng trên quả cầu đang lăn.
Ngày xưa, Bắc Sư được múa trong các lễ hội cung đình với đội múa gồm một
gia đình gồm sư tử bố, mẹ và sư tử con. Ở Chợ Lớn, các đội Bắc Sư chủ yếu là
người Triều Châu và cũng không phổ biến lắm. Những lần tôi xem các đội Bắc Sư
biểu diễn đều là ở các liên hoan lân sư rồng tổ chức ở Tao Đàn hay sân Tinh Võ
chứ chưa thấy gia đình nào rước đội Bắc Sư về múa để đón Tết cả.
Người Quảng Đông thì nổi tiếng về trường phái Nam Sư với đầu sư tử hình
tròn, trán có cục u, có một sừng trên đỉnh đầu. Mắt và miệng của Nam Sư được
người giữ đầu sư tử điều khiển có thể khép mở theo ý muốn rất sống động. Khác với
Bắc Sư, thân Nam Sư không có lông dài bao phủ mà chỉ là một mảnh vải dài có
thêu kim tuyến và viền lông. Do không phải mặc quần lông phủ rườm rà, người múa
Nam Sư có thể thực hiện được những động tác nhanh mạnh và phức tạp hơn so với Bắc
Sư.
Sư tử trong trường phái Nam Sư thật ra không liên quan gì đến sư tử trong
trường phái Bắc Sư mà có xuất xứ riêng của nó. Theo truyền thuyết thì đó là con
quái vật dưới biển có tên là con “Niên” thường lên bờ ăn thịt làm hại bá tánh.
Phật Di Lặc (còn được biết đến với cái tên “Bố Đại Hòa Thượng” – hòa thượng túi
vải) thương người dân lầm than nên dùng cỏ linh chi ngàn năm để thu phục con
quái vật này.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/12/pexels-nam-le-10959540-1536x1024.jpg
Ảnh: pexels-nam-le
Điều này giải thích vì sao các đoàn múa Nam Sư luôn có nhân vật ông Địa
(thực ra là Phật Di Lặc) cầm quạt nan (tượng trưng cho cành linh chi) đùa giỡn
với con lân; và tại sao múa lân theo trường phái Nam Sư thường được múa vào dịp
Tết (“Niên” có nghĩa là năm). Đây là trường phái chủ đạo của múa sư tử ở Chợ Lớn
trước đây.
Một màn không thể thiếu của phái Nam Sư là hoạt cảnh tái diễn việc Phật
Di Lặc thu phục con quái thú Niên. Con quái thú lúc đầu hung hăng như muốn ăn
tươi nuốt sống Phật Di Lặc còn ông Phật có cái bụng to tròn và cái miệng cười
thật rộng thì luôn đùa giỡn như không có chuyện gì xảy ra. Ông đợi cho con vật
ngủ say mới bắt đầu ra tay thuần phục và cuối cùng con Niên hung dữ cũng trở
nên hiền lành đi theo cành linh chi của Phật Di Lặc.
Trẻ con rất thích màn này vì trông hài hước và sinh động, nhất là cảnh
con Niên tìm mọi cách đớp Phật Di Lặc (đôi khi người múa đầu sư tử cố tình đớp
cậu bé nào đó đứng gần khiến cho cu cậu hét lên vừa sợ vừa thích), còn Phật Di
Lặc mặc dù to béo nhưng vẫn né tránh nhẹ nhàng những đòn tấn công. Màn tuyệt kỹ
của Nam Sư khiến người xem hồi hộp thót tim là màn leo sào để ăn bắp cải bên
trong có chứa bao lì xì mà chủ nhà treo trên cao để thử thách tài nghệ của người
múa. Ngoài ra, còn có Mai Hoa Thung, tức là múa trên những cây cọc được xếp từ
thấp đến cao dần.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/12/tony-pham-7cA0JfTkteo-unsplash-1024x1491.jpg
Ảnh: tony-pham-unsplash
Múa sư tử xưa và nay
Trước đây, các đoàn lân theo phái Nam Sư ở Chợ Lớn tự làm đầu lân với nan
tre, giấy bồi, dùng lông thỏ để dán làm râu và lông mày; còn thân được may bằng
vải bóng đủ màu có đính lông thỏ và thêu chỉ kim tuyến. Các đoàn lân thường được
những võ quán kiêm nhà thuốc bắc thành lập, với thành viên là sư huynh đệ trong
một đoàn. Giữa các đoàn lân có một số qui luật bất thành văn. Đó là màu sắc của
râu lân.
Những đoàn lân thành lập trên 20 năm trở lên mới dám múa đầu lân có râu bạc,
còn những đoàn lân có tuổi nghề ít hơn chỉ được múa đầu lân râu đen. Khi hai
đoàn xe lân đi ngược chiều nhau trên một con đường, đoàn lân ít tuổi hơn phải
múa chào đoàn lân nhiều tuổi và nếu đường hẹp thì phải nhường đường. Tuyệt đối
không có chuyện đoàn lân ít tuổi tỏ thái độ vô lễ, xem thường hay cà khịa với
đoàn lân có thâm niên.
Giờ đây, các đội lân thường mua đầu lân được đặt làm từ Hong Kong hoặc
Trung Quốc với râu lân đủ màu sắc: Đỏ, vàng, cam, đen, trắng và thân lân được
may cầu kỳ hơn nhiều. Có nhiều đội, người múa còn mặc quần may cùng loại vải với
thân lân, giống phong cách của Bắc Sư. Đẹp thì đẹp thật nhưng người ta có cảm
giác nét truyền thống kính trên nhường dưới của các đội lân râu bạc và râu đen
ngày xưa bị mất đi. Hỏi một số người ở
Chợ Lớn, ai cũng nhận ra sự thay đổi này nhưng tại sao thì không ai trả lời được.
Tìm tòi tài liệu, cuối cùng tôi cũng biết.
Ảnh: ath-thany-bin-mohd-lazim-unsplash
Thì ra trường phái Nam Sư râu đen-râu bạc của Chợ Lớn trước kia là trường
phái Quảng Đông Phật Sơn. Phật Sơn vốn là quê hương của võ sư huyền thoại Hoàng
Phi Hồng với võ quán Bảo Chi Lâm lừng danh thiên hạ. Thảo nào các phim võ thuật
về Hoàng Phi Hồng đều sử dụng đầu sư tử râu trắng và râu đen với cách múa rất
giống các đội lân Chợ Lớn.
Còn đầu sư tử với râu nhiều màu khác nhau lại thuộc trường phái Quảng
Đông Hạc Sơn, du nhập vào Sài Gòn Chợ Lớn chỉ độ khoảng mười mấy năm trở lại
đây nhưng có chiều hướng lấn át trường phái Phật Sơn. Trường phái Hạc Sơn hiện
rất phổ biến ở Malaysia, Singapore và Thái Lan, với đầu sư tử có chữ “Vương”
trước trán và mỗi màu sắc của đầu sư tử tượng trưng cho một nhân vật trong Tam
Quốc Diễn Nghĩa.
Nếu múa ba con thì sẽ có một con mặt vàng, thân vàng râu trắng gọi là Thụy
Sư, tượng trưng cho Lưu Bị; con mặt đỏ, thân đỏ râu đen dài gọi là Tỉnh Sư, tượng
trưng cho Quan Công; và con mặt đen, thân trắng đen, râu đen gọi là Đấu Sư, tượng
trưng cho Trương Phi.
Còn nếu múa năm con thì là “ngũ hổ tướng”. Lúc này con Thụy Sư (Lưu Bị) sẽ
được thay thế bằng ba con sư tử khác: Con mặt và thân vàng cam râu trắng tượng
trưng cho Hoàng Trung; con mặt xanh râu xanh tượng trưng cho Triệu Vân; và con
mặt trắng râu trắng tượng trưng cho Mã Siêu.
Cũng với hình tượng năm con sư tử đó, có người lại giải thích theo hướng
ngũ hành: Con màu trắng thuộc hành Kim; con màu xanh thuộc hành Mộc; con màu
đen thuộc hành Thủy; con đỏ hành Hỏa; và con vàng hành Thổ.
No comments:
Post a Comment