Con
rồng qua ngôn ngữ dân gian
Nguyễn
Kiến Thiết -
Saigon Nhỏ
8 tháng 1, 2024
https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/con-rong-qua-ngon-ngu-dan-gian/
Năm Giáp Thìn 2024 cầm tinh con rồng, có nhiều điều
thú vị để nói. Người viết xin sưu tầm và thử giải thích một số ngôn ngữ dân
gian qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao về con rồng vẫn thường lưu hành ở nước ta để
hầu bạn đọc.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/01/pexels-wilson-tan-5029848-1536x864.jpg
Ảnh: pexels-wilson-tan
Khái
quát về Rồng
Trong 12 con giáp, rồng là con vật tưởng tượng đứng ở vị trí thứ năm, sau
con mèo và trước con rắn. Rồng là con vật không có thật, nhưng lại có mặt
trong Vè mười hai con giáp: “Tuổi Thìn, rồng ở thiên đình; Đằng
vân giá võ ẩn mình trên mây”.
Rồng là một loài vật xuất hiện trong thần thoại phương Đông và phương Tây
được biểu thị cho loài linh vật có sức mạnh phi thường. Ở các nước phương Đông,
rồng được tôn thờ như thần vật. Còn ở phương Tây, rồng bị coi là loài quái vật,
là biểu tượng của cái ác và sự hung dữ. Văn hóa phương Đông rất kính trọng và
coi rồng là một loại thú linh. Trong tứ linh “Long Ly Quy Phụng” thì rồng đứng
hàng đầu. Long là con Rồng, Ly hay Lân là con
Kỳ Lân, Quy là con Rùa và Phụng/Phượng là một
loài chim quý.
Theo thần thoại, rồng có hình dáng rất lạ kỳ, các bộ
phận con rồng được so sánh như sau: Đầu rồng giống như đầu đà, sừng giống như sừng
nai, cổ giống như cổ rắn, bụng như bụng con giao, mắt như mắt thỏ, tai như tai
bò, chân như chân cọp, móng như móng chim ưng, vảy như vảy cá ly. Rồng có tên gọi
tùy theo màu sắc, như bạch long (mình rồng toàn màu trắng), hoàng
long/huỳnh long (mình toàn màu vàng, cao quý nhứt), thanh long (mình
toàn màu xanh), xích long (mình toàn màu đỏ) và hắc
long (mình toàn màu đen).
Người ta còn phân biệt các loại rồng như: bàn long, ly long, giao
long, ứng long.
Bàn long: rồng nằm, chỉ người chưa gặp thời (Rồng nằm bể
cạn phờ râu; Mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi– Ca dao);
Ly long: rồng còn trẻ, chưa có sừng;
Giao long/cù long: rồng sống được 500 năm thì mọc
sừng;
Ứng long: rồng sống được 1000 năm trở lên thì có sừng dài và
mọc thêm cánh.
Ngoài ra giao long còn được gọi là con thuồng luồng. Theo
truyền thuyết, thuồng luồng thuộc loài thủy quái, có thân hình to lớn, đầu hình
rồng, mình giống rắn, có đầy đủ tứ chi và rất dữ tợn.
Dưới chế độ phong kiến, hình tượng rồng được ghép với uy quyền của nhà
vua- người được mệnh danh là thiên tử (con trời). Vì vậy, từ
các bộ phận trên thân thể cho đến những đồ dùng sinh hoạt hằng ngày của “con trời”
đều được gắn với hình tượng con rồng: long thể/ngọc thể (thân
thể của vua), long nhan (mặt vua), long bào (áo
có thêu rồng của vua), long đình (sân chầu vua ngày
xưa), long xa/long giá (xe dành cho vua), long
sàng (giường để vua nằm), long tu (râu rồng: Lỗ
mũi em có tám cánh lông; chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho…).
Ngoài ra còn có mão cửu long (tức mão Cửu Long
Thông Thiên) là mão vua đội có khắc chín con rồng vào dịp lễ đăng quang,
thiết triều, tiếp sứ đoàn các nước bang giao.
Còn tượng cửu long tức tượng Phật Thích Ca khắc hoạt cảnh
chín con rồng phun nước khi Đức Phật chào đời.
Chắc chúng ta ai cũng biết một con sông lớn trên thế giới được ca dao Lục
tỉnh nhắc tới:
“Sông Cửu Long chín cửa, hai dòng; Người thương qua vô số, nhưng qua
chỉ một lòng với bậu thôi”. Đó là sông Cửu Long (Tây Âu gọi
Mékong) là con sông đứng hàng thứ bảy trên thế giới về chiều dài và sức mạnh
phi thường, là một loại “trường giang vạn dặm” của nước ta. Khi chảy qua địa phận
Nam Kỳ, sông Cửu Long mang ý nghĩa “chín rồng” tương ứng chín
cửa sông đổ ra biển…
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/01/pexels-thangnhat-tran-17581865-1536x1026.jpg
Con rồng qua ngôn ngữ
dân gian
Như đã dẫn, rồng là linh vật được người phương Đông coi là biểu tượng cho
sức mạnh phi thường, cho những gì cao quý nhứt. Do vậy hình tượng rồng trong
văn hóa dân gian- cụ thể là qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao được thể hiện rất
phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc. Nhiều bài học luân lý qua ngôn ngữ dân gian
thường mượn hình ảnh rồng để khuyên răn người đời.
-Ăn như rồng cuốn (chỉ hình tượng
con rồng “cuốn” hết thảy mọi vật để chỉ sức ăn ghê gớm của nó): Ăn nhanh, ăn đến
đâu hết đó.
-Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội nước/uống
như rồng leo, làm như mèo mửa: Ăn nhiều mà làm ít, cẩu thả. Ăn thiệt làm
chơi.
-Thêu phượng vẽ rồng: Vẽ vời, bày đặt
thêm, cố làm cho đẹp hơn.
-Vẽ rồng vẽ rắn (chỉ những nét vẽ tự ý, muốn
vẽ thế nào cũng được, không cần kiểu mẫu): Bày vẽ lôi thôi, luộm thuộm, rườm
rà.
-Rồng bay phượng múa: Hình
dáng, đường nét tươi đẹp, uyển chuyển, phóng khoáng.
–Cá chép hóa rồng: Cá chép nhờ đợt sóng cao đưa lên, vượt
luôn một lần qua ba đợt sóng, nhả ngọc vượt qua Võ Long môn và hóa rồng. Cá
chép hóa rồng vì vậy biểu trưng cho sự can đảm, may mắn, thành công. Ý nói học
trò đi thi được đỗ đạt vinh hiển; ước mơ thành đạt của con người.
–Con Rồng cháu Tiên có nghĩa dòng dõi đầy tự hào của dân tộc
Việt Nam: chung một nguồn cội, con của rồng, cháu của tiên.
–Rồng đến nhà tôm: Người cao sang đến thăm kẻ thấp hèn. Lời
nói nhún nhường của chủ nhà với khách.
–Đẹp duyên cưỡi rồng: Lấy được người chồng lý tưởng.
-Hội long vân (Hội rồng mây): Cuộc gặp
gỡ tốt lành, thời cơ thuận lợi.
–Long bàn hổ cứ (Long: rồng; bàn: uốn khúc; hổ: con cọp; cứ:
ngồi xổm): Nói thế đất hiểm yếu, linh thiêng. Người xưa cho những nơi có bậc hiền
tài là long bàn hổ cứ. Ngoài ra còn có thành ngữ Long đàm hổ
huyệt (đầm rồng hang cọp) cũng cùng ý nghĩa.
-Long ly quy phụng (Rồng lân rùa phượng): Bốn
con vật quý và thiêng theo quan niệm tín ngưỡng phương Đông, bắt nguồn từ bốn
linh thần là Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Võ và Châu Tước đại diện cho bốn yếu tố
hội tụ nơi đất trời là nước, lửa, đất và gió.
-Lưỡng long chầu nguyệt: Hình
hai con rồng chầu về một mặt trăng thường thấy trong các bức điêu khắc ở đình,
chùa, đền thờ. Đó là biểu tượng của âm dương hòa hợp trong vũ trụ.
–Một ngày dựa mạn thuyền rồng; Còn hơn muôn kiếp nằm trong thuyền chài (“thuyền
rồng” là loại thuyền có trang trí, chạm khắc hình rồng dành cho vua chúa): Nói
lên ước mơ của các cô gái thời xưa muốn được vua chọn làm hoàng phi, cung tần,
mỹ nữ, được sống trong giàu sang phú quý.
–Trứng rồng lại nở ra rồng; Liu điu lại nở ra dòng liu điu (“liu
điu”: loài rắn nhỏ chỉ ăn sâu bọ): nói lên những giá trị và bản chất nòi giống,
dòng giống nào sanh dòng giống đó.
–Rồng vàng tắm nước ao tù; Người khôn ở với người ngu bực mình:
(“Rồng vàng” là con rồng quý không bao giờ tắm nước đục ở ao tù): Người khôn
ngoan mà phải chung sống với kẻ ngu đần thì thật là bực bội, khó chịu.
-Câu ca dao: “Vĩnh Long có cặp rồng vàng/ Nhứt Bùi Hữu Nghĩa nhị Phan
Tuẫn thần”, ca ngợi “cặp rồng vàng” Bùi Hữu Nghĩa và Phan Thanh Giản,
hai bậc hào kiệt của tình Vĩnh Long xưa thời chống giặc Pháp xâm lược vào hậu
bán thế kỷ XIX.
Ngoài ra hình tượng con rồng đã đi vào sinh hoạt của người dân, từ điệu
“múa rồng”, rồi trò chơi “rồng rắn” đến đồng hồ khắc hình rồng. Ngay cả cây cảnh
cũng mượn hình ảnh rồng, như cây lưỡi rồng, cây xương rồng,
cây thanh long, cây đậu rồng (Dây ở trên mây; Là cây đậu rồng- Vè
trái cây). Rồng còn có mặt trong Câu đố:
Đầu rồng đuôi phượng le the
Mùa Xuân ấp trứng mùa Hè nở con
(Buồng cau)…
Ảnh: andrea-de-santis-unsplash
__________________
Năm nay là năm con rồng, thiết tưởng nên bàn về một số thành ngữ, ca dao
có “hơi hướm rồng” xuất hiện ở Lục tỉnh để làm phong phú hóa đề tài. Thật ra
khi bàn về văn chương bình dân Việt Nam, người ta thường đề cập đến ca dao miền
Trung, miền Bắc mà ít dẫn “vốn quý” của miền Nam. Người viết muốn bảo tồn và
phát huy “cái di sản lý thú của ông cha” nên phần giới thiệu dưới đây có phần
nghiêng về về vùng đất mới Nam Kỳ Lục tỉnh.
Trước hết là thành ngữ “Năm Thìn bão lụt”. Nhắc tới “năm Thìn bão lụt”,
người ta nghĩ ngay đến cơn bão lụt năm Giáp Thìn 1904 ở xứ Gò Công và nhiều tỉnh
Nam Kỳ thời bấy giờ. Đây là trận bão lụt lịch sử cách đây vừa đúng hai vòng hoa
giáp – tức 120 năm. Còn thành ngữ “năm Thìn bão lụt” có nghĩa nói tới chuyện
xưa cũ đã chìm sâu vào quá khứ.
“Năm Thìn bão lụt” là trận bão lụt kinh hoàng ở Nam Kỳ. Xứ Gò Công chịu ảnh
hưởng nặng nề nhứt. Nhiều vùng phụ cận như Mỹ Tho, Tân An, Sài Gòn-Gia Định và
dọc theo vùng duyên hải cũng bị tàn phá. Nhiều làng ở gần bờ biển đã bị một hải
lưu cao hơn ba mét lôi cuốn đi mất. Bốn mươi năm sau trận thiên tai, Nam
Kỳ tuần báo (chủ nhiệm là Hồ Văn Trung – tức nhà văn Hồ Biểu Chánh) số
85, ra ngày 8 Tháng Sáu 1944, có bài Trận bão năm Thìn mô tả
khá chi tiết về cơn bão diễn ra vào ngày chủ nhựt 1 Tháng Năm 1904 trên đất Sài
Gòn xưa.
Ngoài ra, trong bài viết về Bão lụt năm Thìn của tác giả
Sơn Nam và Tô Nguyệt Đình có đoạn: “Ngày 16 Tháng Ba Âm lịch năm
Giáp Thìn, nhằm ngày 1 Tháng Năm Dương lịch năm 1904, một trận lụt
nổi lên phá hoại toàn cõi Nam Kỳ. Riêng hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công là thiệt hại
nặng nhất”.
Theo thống kê của chánh quyền tỉnh Định Tường và Gò Công thời đó, có tới
hơn 5,000 người chết; súc vật thì mười phần chết tám, và hơn phân nửa nhà dân bị
sập trong cơn bão năm Thìn nầy. Ngay cả vùng Sài Gòn-Gia Định cũng có tới hơn
3,000 người chết, thiệt hại tài sản khá nặng nề:
“Bến Thành nóc chợ cũng bay; Đèn khí nó ngã nằm ngay
cùng đường…”
.
Theo cụ Vương Hồng Sển thì “năm nào có chữ “Thìn” đều có mưa to gió lớn,
duy năm Giáp Thìn (1904) là tai hại nhứt. Bão tố cuồng phong thì gọi “rồng đi”,
“rồng dậy”.
Điều đáng nói là ca dao có màu sắc rồng dưới đây thường đề cập đến tình
yêu đôi lứa của người dân quê Lục tỉnh. Nơi gặp gỡ của tình yêu thôn dã thường
diễn ra trong các cuộc thi hò hát đối đáp, các chàng trai – cô gái có dịp gặp gỡ,
trò chuyện, để ý thương nhau: “Tôi là người dạo kiểng lê
viên; Tới đây gặp gái thuyền quyên nên rủ hò”, hoặc “Sông sâu sóng
bủa láng Cò; Thương em vì bởi câu hò có duyên”.
Để bày tỏ tình yêu, họ phải trải qua nhiều giai đoạn thử thách: tìm hiểu,
tỏ tình, hẹn hò, nhớ nhung, thề thốt. Theo lẽ thường, chàng trai phải chủ
động thực hiện các giai đoạn của tình yêu. Còn cô gái mặc dầu “tình
trong như đã” vẫn ở thế thụ động, rụt rè e ấp.
Lời tỏ tình mộc mạc hồn nhiên được sử dụng bằng ngôn ngữ bình dị, ngộ
nghĩnh là nét đặc thù của ca dao Lục tỉnh. Sau thời gian đi khắp Nam Kỳ, tới
nơi đây do duyên trời định khiến chàng trai đã “phải lòng” cô gái nên tìm
cách bày tỏ tình cảm của mình:
Trên trời có cây hóa kiểng
Dưới biển có cá hóa long
Con cá lòng tong ẩn móng ăn rong
Anh đi Lục tỉnh giáp vòng
Tới đây trời khiến đem lòng thương em.
(Cá hóa long: Cá chép hóa rồng, đã giải thích ở trên).
Chưa hết, chàng đem chuyện hai đứa còn sống sót sau trận bão lụt năm Thìn
là do Tơ hồng Nguyệt lão xe duyên:
Năm Thìn trời bão thình lình
Kẻ trôi người nổi, hai đứa mình còn đây
Tơ hồng nay đã về tay
Bà Nguyệt ở lại xe dây hai đứa mình
Điệu phu thê mình giữ trọn tình
Để phụ mẫu hay đặng đánh mình đau tui.
Câu ca dao dưới đây nói lên nỗi nhớ thương của chàng trai miệt vườn vì
hoàn cảnh phải xa cách người thương của mình bởi trận “bão lụt năm Thìn” mà
“khóc đến mòn con ngươi”, nay gặp lại chi xiết nỗi vui mừng!
Gặp mặt em đây mới biết em còn
Hồi năm Thìn bão lụt qua khóc mòn con ngươi.
Nhớ lại cảnh người chết vô số, thây trôi đầy đồng khiến bao kẻ “lạc vợ xa
chồng” mà phải tuôn trào “nước mắt”:
Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc cho bằng gió Gò Công
Một ngọn gió đưa lạc vợ xa chồng
Nằm đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.
Và trong một hoàn cảnh khác, chàng trai Lục tỉnh vì nhớ tới người thương
đến nỗi “khóc đỏ lòm con ngươi” bởi cảnh “kẻ mất người còn”:
Năm Thìn bão lụt, kẻ mất người còn
Nhớ em anh khóc đỏ lòm con ngươi.
Đôi khi vì quá đỗi si tình, chàng trai trở nên “liều mạng” đến nỗi “Dao
phay kề cổ, máu đổ không màng” và bất chấp mọi trở ngại hiểm nguy, quyết
một lòng son sắt với người mình thương nên hứa hẹn một câu chắc như đinh đóng cột:
Miễn bậu đành ừ, qua chẳng từ lao khổ,
Dẫu đăng sơn cầm hổ, dầu nhập hải tróc long
Trước sau giữ trọn một lòng,
Vào lòn ra cúi, anh cũng đành lòng theo em.
(Đăng sơn cầm hổ, nhập hải tróc long: Lên non giữ lấy cọp, xuống/vào biển
bắt rồng).
Có những tình yêu đơm bông kết trái, nhưng cũng có nhiều cuộc tình gặp trắc
trở khiến cô thôn nữ hoàn toàn sụp đổ trong chán nản và tuyệt vọng muốn “tu được
hóa rồng” hầu “xa lánh bụi hồng gió trăng”:
Nghĩ con cá Lý ngư cũng như thân thiếp
Chờ cho mãn kiếp tu được hóa rồng
Thôi anh đừng mong việc vợ chồng
Để cho em xa lánh bụi hồng gió trăng.
Sau hết là bài ca dao trữ tình:
Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người xa xứ lạc loài tới đây.
“Rồng chầu” chỉ nơi vua đang có mặt, kinh đô nơi vua (rồng) đang ở. Trong
bài này, “rồng chầu” có lẽ chỉ hình ảnh những con rồng tạc bằng đá chầu trước
kinh thành Huế. Việt Nam Từ Điển (1931) giải thích:
“Bởi chữ triều đọc trạnh. Đi hầu chực vua chúa: Các quan đi hầu
vua. Nghĩa rộng: Cùng hướng về một phương vị nào”.
Tự Điển Việt-Bồ-La (1651) giải
thích “tế” có nghĩa là chạy. Ngựa tế là ngựa chạy/chạy mau, chạy đều bốn chân;
“tế riết” là chạy hoài, chạy mãi, chạy riết, không nghỉ chân.
Bài ca dao trữ tình biểu hiện khát vọng tự do qua hình ảnh hào hùng tung
vó ngựa xuôi vào Nam (ngựa tế Đồng Nai) để “mở cõi” của di dân người Việt; đồng
thời nói lên tình dân tộc nghĩa đồng bào của người dân Lục tỉnh-
nói chung và Đồng Nai- nói riêng. Phóng khoáng, bộc trực, mộc mạc, dân dã mà thắm
đượm nghĩa tình. “Người xa xứ lạc loài tới đây” phải chăng là cư dân Đàng
Ngoài, Đàng Trong vào “miền đất hứa” sanh cơ lập nghiệp theo đà Nam tiến?
Chữ “thương” gói trọn nghĩa tình, nó bộc trực, tự nhiên không xởi lởi,
môi mép: người tới trước giúp đỡ, cưu mang đùm bọc người đến sau; người miền
Nam Lục tỉnh cưu mang đùm bọc người từ miền ngoài tới: “Tới đây thì ở lại
đây; Bao giờ bén rễ xanh cây hãy về”. Đó cũng là tánh cách,
là cốt cách “trọng nghĩa tình” của người dân Lục tỉnh. Cũng có
thể giải thích đó là tình cảm đặc biệt của cô gái miệt vườn dành cho chàng trai
“xa xứ”: chữ “thương” ở đây có nghĩa là tình yêu đôi lứa, nó thiệt thà, đằm thắm
mà ẩn chứa nghĩa tình…
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/01/pexels-eva-bronzini-6068533-1536x1024.jpg
Ảnh: pexels-eva-bronzini
_________________
Kết
Còn rất nhiều điều thú vị về ngôn ngữ, văn hóa dân gian liên quan đến con
vật số một trong tứ linh. Vì khuôn khổ có hạn, chúng tôi xin tạm dừng nơi đây.
Duy có điều cần lưu ý: Năm ngoái khi bàn về con cọp, chúng tôi có nhấn mạnh là
người xưa đánh cọp, giết cọp xong rồi lập miếu, tạc tượng mà thờ. Trái lại, con
rồng vốn là linh vật huyền thoại – theo quan niệm Đông phương,
chẳng những không bị đánh giết mà còn được thờ tự khắp đình chùa, miếu mạo cả
nước.
Ngoài ra trong y dược học Việt Nam, theo GS Đỗ Tất Lợi, có nhiều vị thuốc
mang tên rồng như: Ban long (rồng có đốm) là một thứ cao được
bào chế từ sừng hươu có đốm. Địa long (rồng đất) như đã kể.
Long y (chiếc áo của rồng) tức là vỏ ngoài của rắn lột xác (da rắn) bào chế
thành thuốc trị ghẻ và có tác dụng sát trùng ngoài da. Long nhãn (mắt
rồng) là vị thuốc chế từ cùi nhãn phơi sấy khô dùng chữa bịnh suy nhược thần
kinh và mất ngủ, v.v…
Nhân tết con Rồng sắp tới xin kính chúc bạn đọc gần xa – đặc biệt các
chàng trai có sức khỏe phi thường như rồng, còn các cô gái vẫn thủy chung son sắt: “Trăm
năm trăm tuổi may rủi một chồng; Dầu ai thêu phượng vẽ rồng mặc ai”.
Montréal, Canada, Tết Giáp Thìn 2024
Chú thích:
* Thương hồ: Dùng ghe xuồng chuyên chở nông sản buôn bán trên
sông nước miền Nam rày đây mai đó, sống đời “gạo chợ nước sông”.
* Bán vàm – (vàm: cửa rạch, cửa sông, ngã ba sông): Bán
hàng rong như chè, cháo trên sông – thường ở ngã ba sông khắp miền Nam, nơi ghe
thương hồ tới lui tấp nập. Ca dao có câu: “Thân em là gái bán vàm; Bán vàm
em bán, điếm đàng em không”
No comments:
Post a Comment