Những cái “khó” của Việt Nam trong hồ sơ chủ
quyền biển đảo
Bài viết này ghi lại “bốn cái khó” của VN
trong vấn đề chủ quyền HS và TS đồng thời đề nghị phương pháp “giải tỏa” những
cái khó này.
Bốn cái
“khó” là:
Thứ nhứt vấn
đề “Estoppel” - nguyên tắc không được
nó ngược. Các học giả Greg Austin và Thomas Bradford cho rằng công hàm 1958 của
cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nhìn nhận tuyên bố hải phận 12 hải lý và chủ quyền của
TQ tại Hoàng Sa và Trường Sa. Trong một thời gian dài VN có những hành vi tuân
thủ nội dung tuyên bố của TQ. Bây giờ VN không thể “nói ngược”.
Thứ hai, vấn
đề “Acquiescement”. Đặt ra từ học giả
Monique Chemillier-Gendreau. Học giả này cho rằng VN không thể bị “Estoppel”
(như kết luận của Greg Austin và Thomas Bradford), đơn giản vì lúc tuyên bố
1958 VNDCCH không phải là phía có thẩm quyền lãnh thổ ở hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Tuy nhiên, theo học giả này, sự “im lặng” dài lâu cũng như nhiều
hành vi của VNDCCH (như xuất bản sách báo, bản đồ) về HS và TS khiến cho VN có
thể bị vướng “nguyên tắc Acquiescement”, tức nguyên tắc về “sự đồng thuận”.
Thứ ba là vấn
đề kế thừa. Đây là nghi vấn của Giáo sư Joel Nguyen Duy
Tan: làm thế nào VN hôm nay có thể “kế thừa” VNCH khi vẫn cho rằng thực thể
chính trị này là “ngụy, tay sai” ?
Thứ tư, vấn
đề “liên tục quốc gia”. Các học giả VN phải chứng
minh rằng, trong bất cứ biến cố chính trị làm thay đổi lãnh thổ, tên nước, dân
số… hoặc trong bất cứ hoàn cảnh chiến tranh nào… luôn có một “quốc gia Việt
Nam” quản lý thực sự hai quần đảo hoàng Sa và Trường Sa.
Chỉ cần một trong “bốn cái khó” được xác lập,
hoặc là chủ quyền của TQ tại Hoàng Sa và Trường Sa được xác định, hoặc VN mất
HS và TS do việc “từ bỏ chủ quyền”. Nhiều án lệ của Tòa Công lý Quốc tế (CIJ)
cho phép ta kết luận như vậy.
Bản tóm tắt "bốn cái khó" của VN ghi
lại ở trên tôi viết vào ngày 3-12-2018. Tức đã tròn 5 năm. Hôm nay tôi viết
thêm cái khó thứ tư. Đó là "vấn đề thời hiệu - ratio temporis". Chủ đề
này tôi cũng đã viết từ nhiều năm trước.
Chỉ còn không tới 2 tháng nữa là đúng 50 năm
VN mất hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa cho TQ.
Bài 1: Chủ quyền Hoàng Sa và vấn đề "ratione temporis".
Có câu hỏi rằng sau 50 năm "VN sẽ mất
vĩnh viễn Hoàng Sa vào tay Trung quốc" ?
Chiếu theo luật lệ quốc tế hiện hành là không
có văn bản nào thuộc công pháp quốc tế nói về điều này.
Các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa các
quốc gia lưu cửu nhiều khi trên 100 năm nhưng có trường hợp hồ sơ vẫn được
"phủi bụi" và đưa ra tòa Công lý quốc tế.
Tuy nhiên nếu ta qui chiếu theo phán quyết
(préliminaire) của Tòa Công lý quốc tế (CIJ) về vụ Nauru c. Australie, ngày 26
tháng Sáu 1992. Tòa phán rằng:
"La Cour reconnaît que (…) le retard d’un
Etat demandeur peut rendre une requête irrecevable. Elle note cependant que le
droit international n’impose pas à cet égard une limite de temps déterminée ».
Tạm dịch: Tòa nhìn nhận rằng... sự trễ nãi của
một quốc gia bên nguyên đơn có thể làm cho đơn thỉnh cầu của quốc gia này bị
bác bỏ. Tuy nhiên Tòa cũng ghi nhận rằng luật quốc tế không áp đặt một thời hạn
cụ thể trong vấn đề này.
Tức là, mặc dầu luật quốc tế không đề cập gì đến
thời hạn bao lâu thì một vụ tranh chấp (giữa hai quốc gia) sẽ "tàn".
Nhưng nếu một bên "ngâm tôm" quá lâu thì đơn khiếu nại của bên này có
thể sẽ bị Tòa bác.
Ý kiến cá nhân của tôi, vấn đề "thời
gian" sẽ không là một "trở ngại", nếu VN liên tục lên tiếng phản
đối bất kỳ một hành vi nào của TQ thể hiện ở Hoàng Sa.
Cái khó của VN là việc "mất tố quyền -
forclusion - estopped", tức VN không còn "quyền" nào nữa để kiện
tụng TQ trong bất cứ vấn đề nào ở Hoàng Sa (và có thể ở Trường Sa). Công hàm
1958 của PVĐ có hiệu lực "ngăn chặn" mọi vận động pháp lý của VN liên
quan đến HS và TS.
TQ luôn nói rằng trong cuộc chiến HS họ
"phản công tự vệ" vì VNCH khai hỏa trước. TQ cho rằng mục đích cuộc
chiến HS 17-19 tháng Giêng 1974 là "giải phóng một vùng lãnh thổ bị ngoại
xâm chiếm đóng".
Vụ đụng độ Gạc ma 1988 lập luận của TQ vẫn
không thay đổi.
VN dễ dàng đi kiện TQ vụ Gạc ma nhưng họ đã
không đi kiện. Nhà cầm quyền CSVN cũng không hề có những phản đối đúng mức với
những hành vi "bồi đắp đảo" của TQ (từ năm 2013) ở 7 bãi đá chiếm của
VN.
Chuyện "dễ" họ không làm. Vì họ
không muốn làm hay họ muốn làm nhưng không thể làm được ?
Theo tôi là họ không thể làm được. VN đến nay
không trả lời, không phản biện được nội dung công hàm ngày 17 tháng Tư năm 2020
của TQ gởi tổng thơ ký LHQ trong vụ "cuộc chiến công hàm" ở Ủy ban
ranh giới thềm lục địa. Công hàm này TQ cho rằng VN đã bị "mất tố quyền -
estopped" vì công hàm 1958 của PVĐ (và những tài liệu như sách giáo khoa,
báo chí, bản đồ... của VN nhìn nhân HS và TS thuộc TQ).
Tức là cản trở khiến VN hôm nay không thể kiện
tụng gì với TQ là sự hiện hữu công hàm 1958.
Các tuyên bố của TQ như "phản công tự vệ"
hay "giải phóng một lãnh thổ bị ngoại bang chiếm đóng" đều đặt căn bản
trên công hàm 1958 của PVĐ.
Do đó bất cứ động thái nào của VN về pháp lý ở
HS hay TS, nếu VN chưa làm một "thủ tục hóa giải" công hàm 1958 hợp
lý và thuyết phục, thì VN "kiện là để thua". Tòa sẽ bác đơn VN từ bãi
"gởi xe
Bài 2: Yếu tố thời gian "rationne temporis" trong vấn đề kiện
tụng (đòi lại HS).
Người ta ăn cướp của mình thì mình kiện tụng
đòi lại được. Còn nếu mình nhượng cho người ta rồi thì kiện cái gì ?
Và yếu tố thời gian, không phải là khi
"không có luật qui định" thì mình "ngâm tôm" đến bao giờ
cũng được.
Nhắc lại là luật quốc tế không áp đặt một thời
hạn cụ thể trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Nhưng nếu hồ sơ để lâu quá, vụ
tranh chấp sẽ "tàn".
Tức là "cứt trâu để lâu hóa bùn".
Qui chiếu qua vụ khác, Cambodge kiện Thái lan
vụ ngôi đền Preah Vihear năm 1960. Tòa xử Cambodge thắng kiện, dựa trên bằng chứng
bản đồ, ngôi đền thuộc về nước này. Giới luật gia thế giới phản đối quá trời vụ
này. Bởi vì, dựa trên Công ước, khu đất có ngôi đền thuộc về Thái lan. Tập quán
quốc tế cho rằng rằng văn bản công ước có giá trị cao hơn bản đồ (đính kèm công
ước). Tình hình là quan tòa không nghe theo tập quán vì yếu tố
"estoppel". Tòa giải thích rằng, vì trong một thời gian dài phía Thái
lan im lặng, không phản đối tấm bản đồ vẽ sai. Tức là Thái lan đã chấp nhận thực
tế này.
Vì vậy các học giả chớ quá lạc quan.
"Ngâm tôm" hồ sơ HS lâu quá là “toang” nghe quí học giả!
Chuyện dễ nhứt để VN giữ danh nghĩa HS là kiện
TQ dựa trên nguyên tắc "ex injuria jus non oritur". TQ không có chủ
quyền ở HS hệ quả TQ không thể yêu sách bất cứ cái gì liên quan HS cả (về hải
phận EEZ, thềm lục địa, vùng nước v.v...). Thế giới sẽ hòa bình ngay tức thì.
Chuyện này không làm được, sang năm là đúng 50
năm. Tình hình “càng để lâu càng khó”...
.
Tiến
sỹ có tâm với đất nước là rất quý ! Nhưng chế độ cộng sản hiện hành ở VN lại được
thành lập, đào tạo & nuôi dưỡng bởi Trung cộng; vì vậy Việt cộng luôn phải
mang ơn Trung cộng. Từ đó Trung cộng luôn lấn tới trong đàm phán lãnh thổ &
lãnh hải. Thực tế VC đã nhượng cho TC trên đất liền( ải Nam Quan, thác Bản
Giốc, đỉnh Lão Sơn, v.v.v ; trên biển là 46% vịnh Bắc Bộ với giá 2 tỷ $. Điều
đó diễn ra lúc Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương cầm quyền. Thời gian
sau, khi TC đưa giàn khoan HD981 vào, và các cuộc biểu tình mạnh mẽ của người
dân nổ ra. Trung cộng tuy phải rút giàn khoan về, nhưng đã cử Ngoại trưởng
Dương Khiết Trì sang Hà Nội, đe nẹt lãnh đạo Việt cộng bằng yêu sách 4 không
như sau:
1 -
Không được dùng những cái gọi là sự kiện, chứng cứ lịch sử để đòi hỏi chủ quyền
ở HS, TS.
2 -
Không được lôi kéo các Quốc gia khác, vào cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển
Đông.
3 -
Không được kiện TC ra các Tòa án Quốc tế.
4 -
Không được đánh giá thấp quyết tâm của TC ở Biển Đông.
Với
yêu sách 4 không này, nếu cộng sản còn cầm quyền ở Việt Nam, thì sớm muộn gì HS
(đã mất) và cả TS sẽ rơi vào tay Trung cộng !!!
No comments:
Post a Comment