Nam
Phương - Hoàng hậu cuối cùng
Ái Thư | Luật
Khoa Tạp Chí
December
19 2023 9:54 PM
https://www.luatkhoa.com/2023/12/nam-phuong-hoang-hau-cuoi-cung/
Một
nữ chính khách bị dòng chảy lịch sử cuốn trôi.
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w2000/format/webp/2023/12/Nam-Ph--ng.jpg
Ảnh bìa
sách: Nhà xuất bản Perrin. Đồ họa: Luật Khoa.
Cuốn sách
“Nam Phuong – La dernière impératrice du Vietnam” (tạm dịch: Nam Phương
– Hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam) của nhà sử học người Pháp François Joyaux
chuyên nghiên cứu về Viễn Đông, là một nỗ lực mô tả chân dung người “quốc mẫu”
Việt Nam mang quốc tịch Pháp trong những ngã rẽ lịch sử. Nam Phương hoàng hậu
không chỉ là một nội tướng cai quản hậu cung, mà bà còn đóng vai trò quan trọng
trong các quyết định của vua Bảo Đại.
Tác phẩm
được phát hành vào năm 2019, có lời đề tựa của hoàng tử Nguyễn Phúc Bửu Sao. Cuốn
sách này nổi bật hơn cả khi mà hầu hết các công trình nghiên cứu lịch sử khác
chỉ tập trung vào đàn ông với những câu chuyện kẻ thắng và người thua.
Hoàng
hậu – người phụ nữ của gia đình trâm anh Nam Kỳ
Phần đầu
cuốn sách mô tả lịch sử lãnh thổ Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, mà ở đó người
dân Nam Kỳ được hưởng quốc tịch Pháp.
Jeanne
Mariette Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, còn được biết đến với tên thân mật
Mariette, xuất thân từ một trong những dòng tộc Công giáo có ảnh hưởng nhất ở
Nam Kỳ, một nơi vốn đã có sự giao lưu văn hóa của các thương nhân châu Âu. Bà
sinh ra vào thời điểm Công giáo không ngừng được mở rộng tại Việt Nam nhưng
cũng liên tục bị chính quyền nhà Nguyễn đàn áp.
Trong khi
những phong trào chủ nghĩa dân tộc đầu tiên bùng nổ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, thì ở
miền Nam lại hình thành tầng lớp tiểu tư sản Tây hóa, đi cùng với đó là một nền
kinh tế phát triển. Theo lời của tác giả, gia đình Mariette không ngần ngại
chào đón những nhà thực dân. Sự giàu có của gia đình hoàng hậu đến từ ba yếu tố:
người Pháp, Công giáo, và việc thực dân hóa An Nam ở vùng đồng bằng.
Một
tiểu thư lá ngọc cành vàng mang quốc tịch Pháp
Gia đình của
hoàng hậu được du học từ sớm, không chỉ ở Pháp mà còn ở các nước Đông Nam Á. Từ
khi sinh ra, bà đã mang quốc tịch Pháp do đặc thù lịch sử. Cha của bà Nam
Phương thành thạo tiếng Pháp, một lòng với Công giáo, và có năng lực xuất
chúng, nên đã trở thành cánh tay phải của một địa chủ lớn và rồi trở thành con
rể của ông ấy. Ông ngoại bà là người có công xây dựng nhiều nhà thờ cũng như
tài trợ cho các trại trẻ mồ côi, trường học, các công trình từ thiện, v.v.
Bà lớn lên
cùng vú em người Senegal trong một môi trường giáo dục kiểu Pháp, bà ăn mặc và
sống trong ngôi nhà mang phong cách châu Âu.
Năm 1925,
vua Khải Định băng hà. Điều này chẳng ảnh hưởng gì lắm đến Sài Gòn, nhưng rồi sẽ
tác động rất lớn tới cuộc đời bà Nam Phương trong tương lai. Thời điểm này, phu
quân tương lai của bà là thái tử Vĩnh Thụy chính thức lên ngôi vua.
Năm 1927,
bà sang Paris theo học tại tu viện Oiseaux, nơi người chị gái ruột Agnes từng
theo học. Gia đình mong muốn bà học ở môi trường thành thị và phải nói được tiếng
Pháp hoàn hảo. Tu viện này là một ngôi trường của giới tinh anh, đòi hỏi học
viên phải có tính kỷ luật cao. Gia đình người chú Lê Phát Vĩnh góp phần chăm
sóc Mariette trong khoảng thời gian này.
Mariette
say mê lịch sử, hội họa, và âm nhạc. Tuy vậy thính giác của bà không được tốt.
Điều này dẫn tới việc bà gặp khó khăn khi kết giao bạn bè. Bà là một người có
phần rụt rè, song lại hiếu thuận, thông minh, và sống tình cảm. Cho dù là một
con chiên của Thiên Chúa giáo, bà vẫn thấm nhuần những giá trị Nho giáo. Khi ở
Roma, bà mặc trang phục Việt, giữ gìn những nét Việt nhiều nhất có thể.
Thời điểm
đó, thái tử Vĩnh Thụy cũng đang theo học ở Paris. Ông được vua cha cử cho một
giáo viên dạy Hán Nôm riêng. Bà Mariette và ông Vĩnh Thụy cùng rời Pháp vào năm
1932 sau khi kết thúc chương trình học, lúc này bà 19 tuổi.
Ngay cả
khi được sinh ra và được giáo dưỡng trong một gia đình Tây hóa giàu có, có kết
quả học tập rất xuất sắc, và vô cùng quyến luyến với Paris, thì người phụ nữ ấy
cũng không có cơ hội theo đuổi giáo dục bậc cao mà buộc phải về nước.
Khi
Mariette trở về nước, Đông Dương đã có nhiều sự đổi thay. Cuộc khủng hoảng kinh
tế năm 1929 đã gây ra những hậu quả trầm trọng, cuộc nổi dậy ở Yên Bái năm 1930
đã khiến mảnh đất thuộc địa đảo điên. Bất chấp như vậy, Sài Gòn vẫn chẳng hề có
biến động gì. Hầu như chẳng có sự kết nối giữa Sài Gòn và kinh thành Huế.
Cuộc
hôn nhân Công giáo – Phật giáo sắp đặt
Người Pháp
kiểm soát việc thành thân của Bảo Đại. Lịch sử trước đó đã khiến người Pháp cảnh
giác với những ông vua Nguyễn “nổi loạn” như Hàm Nghi, Duy Tân. Việc chọn hoàng
hậu vì thế mà vô cùng quan trọng.
Người chị
của Mariette kết hôn với một thuyền trưởng người Pháp. Gia đình trông mong
Mariette cũng sẽ cưới được một doanh nhân hay một người Pháp, nhưng rồi bà trở
thành hoàng hậu.
Toàn quyền
Đông Dương Pierre Pasquier cho rằng kết hôn sẽ khiến hoàng tử ổn định. Theo tác
giả, việc người Pháp chọn Mariette cũng là để phần nào hiện thực hóa công cuộc
“Thiên Chúa hóa” mảnh đất Đông Dương của người Pháp.
Bà gặp Bảo
Đại tại một bữa tiệc ở Đà Lạt, một khung cảnh hào nhoáng không phù hợp với tính
cách của bà, nhưng do người chú một mực yêu cầu có mặt nên Mariette không thể
nào từ chối.
Mariette
và thái tử Vĩnh Thụy nói chuyện bằng tiếng Pháp. Bà cũng không ngại ngần nói với
vị thiên tử, rằng bà có vấn đề về thính giác. Họ không chỉ môn đăng hộ đối, mà
còn tâm đầu ý hợp. Đặc biệt, vị toàn quyền Đông Dương Pasquier hài lòng với việc
lựa chọn Mariette bởi gia đình bà trung thành với chính quyền Pháp. Hoàng gia
thì không hoàn toàn hài lòng vì người con gái ấy mang tôn giáo khác với gia
đình.
Cuộc hôn
nhân này phải hỏi ý kiến từ phía Vatican. Tòa Thánh chỉ chấp thuận với hai điều
kiện: vua phải tôn trọng tự do tôn giáo của hoàng hậu, và con cái của họ phải
được nuôi dạy theo cách Công giáo. Phía Vatican đặt nặng yêu cầu tôn giáo do họ
từng mất nước Anh cũng vì lý do hôn nhân tôn giáo vào thế kỷ 16.
Hoàng gia ở
Huế không thể nào chấp nhận việc cải đạo của nhà vua. Hoàng thái hậu Từ Cung kịch
liệt phản đối. Bà không chỉ khó chịu vì vấn đề tôn giáo, mà đó còn là vì một
người nữ Tây học, mang quốc tịch Pháp, giàu có và không biết gì tới những lễ tắc
hoàng cung. Sự thiếu thiện cảm của gia đình đi theo hoàng hậu suốt cuộc đời.
Các quan lớn
trong triều đình cũng tỏ ý phản đối, trong đó có thể kể đến Thượng thư Bộ Lễ
Tôn Thất Hân. Ông cảnh báo về sự can thiệp của tôn giáo vào chính trị sẽ khiến
hoàng gia không trụ vững.
Từ
Paris hoa lệ tới Tử Cấm thành
Vua Bảo Đại
cuối cùng tuyên bố phá bỏ những rào cản truyền thống để tiến hành hôn lễ với
Mariette vào năm 1934. Cái tên Nam Phương mang ý nghĩa hương thơm của xứ Nam,
là do vua Bảo Đại đặt cho. Với việc sắc phong Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan là
hoàng hậu, vua còn phá bỏ quy định từ thời Gia Long: chỉ phong hoàng hậu cho
người mẹ của vị vua kế tiếp. Trước đó, chỉ khi người vợ của vua có con trai nối
dõi mới được phong. Minh Mạng có 142 người con từ 30 phi tần. Nam Phương là người
vợ chính tắc duy nhất của vua. Như vậy Bảo Đại dám phá bỏ chế độ đa thê của
hoàng gia. Điều đó cũng có nghĩa là con của Mariette sẽ lên ngôi. Năm 1936,
thái tử Bảo Long ra đời.
Chính vua
đã gửi thư tới Giáo hoàng, cho rằng cần phải xóa bỏ những rào cản Đông – Tây.
Cuối cùng thì đôi vợ chồng hoàng gia cũng nhận được lời chúc phúc của Giáo
hoàng. Qua mô tả và phân tích của tác giả, người phụ nữ thuộc dòng họ thế phiệt
Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan không hề có tiếng nói trong cuộc hôn nhân này.
Là người
yêu thiên nhiên, hoàng hậu gắn bó với Đà Lạt. Quan chức phong kiến không quen với
việc nhìn thấy một bà hậu chơi tennis, chơi golf, và bắn súng Tây.
Hoàng hậu
hạn chế lễ nghi Phật giáo, lại thường xuyên trò chuyện với thái tử bằng tiếng
Pháp, rồi còn cùng cầu nguyện mỗi ngày. Hoàng hậu nỗ lực để Bảo Long sớm chính
thức thành thái tử, danh hiệu ấy giúp củng cố vị thế của chính bà.
Đóng
góp của Nam Phương
Hoàng hậu
không chỉ tham gia các hoạt động vốn được xem là dành cho nữ giới như y tế,
giáo dục, mà còn tích cực tham vấn cho chồng về các chính sách dân sinh. Tuy
nhiên, vai trò và ảnh hưởng của bà thường khá lu mờ.
Bà muốn
thoát khỏi cái bóng cai quản hậu cung, khao khát được vi hành. Theo tác giả, bà
có vai trò lớn trong việc xây dựng những trung tâm Công giáo tại Đà Lạt.
Việc bà
cùng vua Bảo Đại tiếp đón vua Norodom Sihanouk của Campuchia hay vua Sisavang
Vong của Lào ở Huế là những điều chưa từng có trong tiền lệ ở An Nam – vốn chưa
bao giờ cho phép phụ nữ diện kiến cùng nhà vua trong những dịp như vậy.
Tác giả mô
tả hoàng hậu qua cái nhìn của những chính khách và nhà báo Pháp. Các con của họ
vừa được hưởng giáo dục truyền thống của hoàng gia, vừa được Nam Phương chỉ dạy
theo lối Pháp.
Trong những
thời khắc gian truân nhất, hoàng hậu vẫn luôn ưu tiên che chở cho những người
con của mình. Bảo Đại tuyên bố độc lập khỏi Pháp và lấp đầy bộ máy bằng những
nhân vật theo Nhật. Điều khiến hoàng hậu lo ngại có lẽ đó là một thứ rượu cũ
bình mới: chỉ là thay tên gọi “bảo hộ” bằng “độc lập”.
Trở
thành cựu hoàng hậu
Hoàng hậu không do dự chấp nhận mình là phu
nhân của cố vấn chính phủ cách mạng Vĩnh Thụy, tự nguyện đóng góp trang sức của
mình cứu trợ đồng bào nạn đói theo tiếng gọi của Việt Minh, nhưng đâu ngờ rằng
của cải ấy được dùng để mua vũ khí. Và nhanh chóng sau khi nắm quyền, những người
mà cựu hoàng hậu ủng hộ đã bắt giữ mục sư Công giáo. Ở cung An Định, bà sống
trong sự kiểm soát của những người mà bà hết lòng ủng hộ. Và khi ngay cả không
phải là đất bảo hộ của Pháp, hay đất độc lập theo cách của Nhật, thì tự do hay
an toàn vẫn chưa thực sự đến.
Kể từ năm
1946, cựu hoàng hậu tự mình đạp xe trên những con đường Huế, trở nên thân cô thế
cô hơn bao giờ hết. Người phụ nữ đã sống những năm gian truân nhất của cuộc đời
vào cuối năm 1945, nhất là khi vua Bảo Đại đã tị nạn tại Trung Quốc năm 1946, để
lại bà và năm người con ở Huế. Gia đình lớn của hoàng hậu, cũng giống như biết
bao gia đình khác trên đất Việt, cũng tan đàn xẻ nghé vì những lý tưởng chính
trị khác nhau, mà cụ thể là theo hay không theo Việt Minh. Những người bạn của
bà, cũng bị Việt Minh bỏ tù hoặc biến mất.
Lựa
chọn sống lưu vong
Là một tín
đồ Công giáo, bất kể tình huống gì bà cũng nghĩ tới và tìm đến nhà thờ. Bà chấp
nhận trở thành cố vấn cấp cao của Liên bang Công giáo miền Trung.
Trái với
nhiều tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này, vị hoàng hậu cuối cùng và
người thân không hề cảm thấy an tâm và an toàn trước sự có mặt của Việt Minh.
Cựu hoàng
hậu là linh hồn của kế hoạch Công giáo nhằm cứu vãn tình thế. Tuy thất bại,
nhưng Nam Phương muốn phục hồi lại nền quân chủ với sự hậu thuẫn của giới Công
giáo và với con trai bà là hoàng đế kế nhiệm.
Bất chấp sự
phản đối của thái hậu về việc đi tị nạn ở nước ngoài, hoàng hậu đã tự cứu mình.
Những người truyền giáo Quebec nói tiếng Pháp tại Huế đã cứu giúp gia đình Nam
Phương. Thái tử Bảo Long đi trước, hoàng hậu và bốn người con còn lại đi sau.
Sáu mẹ con đã an toàn rời khỏi Huế khi cuộc chiến Việt Minh và Pháp nổ ra.
Tháng 4
năm 1947, quân đội Pháp hộ tống bà tại Đà Nẵng, bà được đưa tới Đà Lạt bằng máy
bay quân sự. Bốn tháng sau, bà được đưa tới Hồng Kông, bà gặp Vĩnh Thụy rồi qua
Pháp sống lưu vong.
Từ năm 1948, Bảo Đại và người Pháp thương lượng
rất nhiều về tương lai của Việt Nam. Bà đồng hành với chồng ở Geneve. Dù không
thể về lại Việt Nam, bà vẫn hàng ngày cầu nguyện cho nền hòa bình của nước nhà,
theo dõi sát sao tình hình chính trị Đông Dương. Bà vẫn là người chịu trách nhiệm
cho việc nuôi dạy các con, đồng thời bắt đầu đầu tư tại châu Phi.
Khi Bảo Đại
trở thành quốc trưởng sau hiệp ước Vịnh Hạ Long năm 1948 và trở về Đông Dương
năm 1948, bà Nam Phương vẫn ở lại Pháp cùng các con. Trong những tháng ngày tại
Pháp, bạn bè của cựu hoàng hậu chủ yếu người Pháp và rất hiếm có người Việt.
Bà sống cô
đơn, nhất là khi cuộc sống đa thê cũng theo Bảo Đại sang Pháp. Khi Thái tử Bảo
Long tham chiến ở Algeria, cựu hoàng Bảo Đại sống ở vùng Alsace, còn Nam Phương
sống tương đối ẩn dật ở vùng Chabrignac, Corrèze, cách thủ đô Paris khoảng 500
km.
Nhưng bà vẫn
không xa rời chính trị Việt Nam và thường xuyên gặp gỡ các chính khách trong và
ngoài nước khi họ tìm gặp bà ở Pháp. Theo lời tác giả, tài trí và nhân cách của
có được sự nể trọng của những chính khách mày râu, như anh em Ngô Đình Diệm hay
Cường Để. Nguyện ước của bà là một ngày nào đó sẽ lại thấy An Nam phục hồi và
phục sinh (Annam ressuscité et rajeuni). Do đó, cựu hoàng hậu kịch liệt phản đối
sự dựa dẫm vào Mỹ của nhà Ngô.
Tác giả kết
luận rằng lịch sử cần phải có cái nhìn công bằng với cựu hoàng hậu tài sắc vẹn
toàn và yêu nước. Bản thân bà cũng là một người lãnh đạo thực thụ, một chính
khách nữ đáng khâm phục. Bà nên phải được phong là một người hùng của đất nước
Việt Nam đương đại. Những người viết sử ngày nay cũng cần nỗ lực đòi lại công bằng
cho những người phụ nữ bị lép vế trong lịch sử.
=====================================================
Danh gia vọng
tộc Ngô Đình qua ngòi bút của con cái ông Ngô Đình Nhu
Cuốn sách
dành tặng dân tộc Việt Nam
.
Hồi ký về một đời
lưu vong của bà Ngô Đình Lệ Quyên
Khi ở tận
cùng màn đêm, ta dù mất tất cả cũng không mất chính mình.
Luật Khoa tạp chí Nguyễn Thanh Minh
No comments:
Post a Comment