Henry
Kissinger: Kẻ đạo đức giả hay nhà hiện thực tàn nhẫn?
Ben Rhodes - The
New York Times
Đỗ Đặng Nhật Huy, biên
dịch
https://nghiencuuquocte.org/2023/12/02/henry-kissinger-ke-dao-duc-gia-hay-nha-hien-thuc-tan-nhan/
Henry Kissinger, người vừa qua đời hôm thứ Tư,
là hiện thân cho khoảng cách giữa lời nói và hành động của nước Mỹ trên chính
trường quốc tế. Đôi khi theo kiểu cơ hội và mang tính chữa cháy, chính sách đối
ngoại của ông luôn lấy quyền lực làm màu sắc chủ đạo và không quan tâm đến những
con người còn sót lại sau nó. Có lẽ vì nước Mỹ trong mắt ông không phải là ‘một
thành phố trên đồi,’ nên ông chưa bao giờ thấy mình sai: ý tưởng và sáng kiến sẽ
đến và đi, nhưng quyền lực thì không.
Từ năm 1969 đến năm 1977, Kissinger đã khẳng định
mình là một trong những quan chức quyền lực nhất trong lịch sử. Ông thậm chí là
người duy nhất từng đảm nhiệm song song chức vụ cố vấn an ninh quốc gia và ngoại
trưởng Mỹ, hai công việc rất khác nhau nhưng đồng thời đặt lên vai ông trọng
trách định hình và tiến hành chính sách đối ngoại Mỹ. Nếu nguồn gốc Do Thái gốc
Đức và giọng tiếng Anh đặc trưng khiến ông trở nên khác biệt, thì cách ông tiếp
nhận quyền lực một cách vô cùng tự nhiên đã đưa Kissinger trở thành hình ảnh đại
diện cho một cỗ máy an ninh quốc gia Mỹ phát triển trong suốt thế kỷ 20, hệt
như một sinh vật tồn tại bằng cách tự mở rộng chính nó.
Ba mươi năm sau khi Kissinger nghỉ hưu và làm
việc thoải mái trong khu vực tư nhân, tôi phục vụ trong một bộ máy an ninh quốc
gia hậu Chiến tranh Lạnh, hậu 11 tháng 9, lớn hơn nhiều so với thời của ông. Với
nhiệm vụ là phó cố vấn an ninh quốc gia phụ trách viết bài phát biểu và các vấn
đề liên lạc, tôi thường tập trung nhiều hơn vào cách mà nước Mỹ nói hơn là cách
chúng ta làm.
Khi ở trong Nhà Trắng, bạn ý thức được rằng
mình đang đứng trên đỉnh chóp của một nền kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất thế
giới, đồng thời có quyền định hình câu chuyện của nước Mỹ: “Chúng tôi coi những
sự thật này là hiển nhiên, rằng tất cả mọi người đều được sinh ra bình đẳng.”
Nhưng tôi liên tục phải đối mặt với những mâu thuẫn từ trong nội tại của giới
lãnh đạo Mỹ, khi biết rằng chính phủ Mỹ tài trợ vũ khí cho những kẻ độc tài
trong khi liên tục quảng bá về tự do để lôi cuốn những người bất đồng chính kiến
đang tìm cách lật đổ các chế độ ấy. Hoặc rằng chúng tôi nghiêm túc thực thi các
quy tắc – như công ước tiến hành chiến tranh, luật giải quyết tranh chấp và
dòng chảy thương mại – cho đến khi nó trở nên bất tiện với chính sách của Mỹ.
Nhưng Kissinger không thấy có vấn đề gì với những
mâu thuẫn ấy. Đối với ông, uy tín bắt nguồn từ những gì bạn đã làm hơn là những
gì bạn đại diện, kể cả khi những hành động đó khiến các khái niệm quen thuộc của
Mỹ về nhân quyền và luật pháp quốc tế trở nên vô hiệu. Ông đã góp phần mở rộng
chiến tranh Việt Nam sang Campuchia và Lào, nơi Hoa Kỳ trút xuống một lượng bom
lớn hơn cả tổng lượng bom ném xuống Đức và Nhật Bản trong Thế chiến 2. Các vụ
ném bom đó – thường tàn sát dân thường một cách bừa bãi – không giúp đem lại
các điều kiện thuận lợi hơn để tiến tới kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Nó chỉ lột
trần việc Hoa Kỳ sẽ làm bất cứ điều gì để không phải chịu cảm giác thua cuộc.
Thật trớ trêu khi loại chủ nghĩa hiện thực này
đạt đến đỉnh cao vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh, một cuộc xung đột bề ngoài có vẻ
là về hệ tư tưởng. Từ phía thế giới tự do, Kissinger ủng hộ các chiến dịch diệt
chủng – của Pakistan chống lại người Bengal và của Indonesia chống lại Đông
Timor. Ở Chile, ông bị cáo buộc giúp đặt nền móng cho một cuộc đảo chính quân sự
dẫn đến cái chết của Salvador Allende, tổng thống dân cử tả khuynh, và mở ra một
giai đoạn cai trị chuyên quyền khủng khiếp ở nước này. Lời bào chữa quen thuộc
là Kissinger xem mục đích (sự sụp đổ của Liên Xô và Chủ nghĩa Cộng sản cách mạng)
là sự biện minh chính đáng cho cách làm. Nhưng đối với thế giới bên ngoài, cách
nghĩ này hàm chứa một thông điệp tàn bạo mà nước Mỹ thường truyền tải đến những
nhóm dân cư bị thiệt thòi của chính mình: Chúng tôi quan tâm đến nền dân chủ của
chúng ta, chứ không phải cho họ. Không lâu trước chiến thắng của Allende,
Kissinger đã nói: “Các vấn đề này quá quan trọng đối với cử tri Chile nên không
thể để họ tự quyết định.”
Tất cả có xứng đáng không? Kissinger nhấn mạnh
uy tín, rằng nước Mỹ phải trừng phạt những ai dám phớt lờ chúng ta, từ đó định
hình quyết định của các nước khác trong tương lai. Thật khó mà cho rằng vụ ném
bom ở Lào, cuộc đảo chính ở Chile hay các vụ giết người ở Đông Pakistan (nay là
Bangladesh) đã góp phần dẫn đến kết cục của Chiến tranh Lạnh. Nhưng quan điểm
không ủy mị của ông Kissinger về các vấn đề toàn cầu đã cho phép ông đạt được
những đột phá lớn với các đối thủ của Mỹ – giai đoạn hoà hoãn với Liên Xô đã
làm giảm đà leo thang của cuộc chạy đua vũ trang, mở lại quan hệ với Trung Quốc
đã làm sâu sắc thêm chia rẽ Trung-Xô, hội nhập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào
trật tự toàn cầu, và mở đầu cho cuộc cải cách của Trung Quốc đã đưa hàng trăm
triệu người thoát khỏi đói nghèo.
Việc những cải cách đó được khởi xướng bởi Đặng
Tiểu Bình, cũng chính là người đã ra lệnh đàn áp ở Quảng trường Thiên An Môn,
nói lên bản chất mơ hồ trong di sản của ông Kissinger. Một mặt, việc xích lại gần
nhau hơn giữa Mỹ và Trung Quốc đã góp phần đưa Chiến tranh Lạnh đến hồi kết và
cải thiện đời sống cho người dân Trung Quốc. Mặt khác, Đảng Cộng sản Trung Quốc
đã nổi lên như đối thủ địa chính trị chính của Hoa Kỳ và là ngọn cờ đầu cho xu
hướng độc tài trong nền chính trị toàn cầu, đưa hàng triệu người Duy Ngô Nhĩ
vào các trại tập trung và đe dọa xâm chiếm Đài Loan, một vấn đề mà học thuyết
ngoại giao của Kissinger cũng không có câu trả lời.
Kissinger đã sống nửa phần đời còn lại của
mình sau khi rời chính quyền. Ông là ví dụ nổi trội nhất cho một loạt các cựu
quan chức lưỡng đảng xây dựng các doanh nghiệp tư vấn dựa trên các mối quan hệ
toàn cầu. Suốt nhiều thập niên, ông là vị khách được thèm muốn tại các cuộc tụ
họp của các chính khách và giới tài phiệt, có lẽ vì ông luôn có thể đưa ra một
khuôn khổ trí tuệ để giải thích cho lý do tại sao một số người lại có quyền lực
và có quyền nắm giữ quyền lực. Ông viết rất nhiều sách, trong đó có nhiều cuốn
đã đánh bóng danh tiếng của ông như một nhà tiên tri về các vấn đề toàn cầu;
xét cho cùng, lịch sử được viết bởi những người như Henry Kissinger, chứ không
phải bởi những nạn nhân của chiến dịch ném bom của các siêu cường, những trẻ em
Lào vẫn tiếp tục hứng chịu hậu quả của bom mìn chưa nổ rải rác khắp đất nước.
Bạn có thể chọn xem những quả bom chưa nổ đó
là thảm kịch không thể tránh khỏi trong việc điều hành các vấn đề toàn cầu. Từ
quan điểm chiến lược, Kissinger chắc chắn biết rõ, rằng một siêu cường có phạm
vi được phép sai lầm đủ lớn để cuối cùng sẽ được lịch sử tha thứ. Chỉ vài thập
niên sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, chính những quốc gia mà chúng ta
ném bom đã tìm cách mở rộng quan hệ thương mại với Hoa Kỳ. Bangladesh và Đông
Timor hiện là những nước độc lập nhận hỗ trợ từ Mỹ. Chile có một tổng thống 8x
theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và một bộ trưởng quốc phòng là cháu gái của
ông Allende. Siêu cường làm những gì họ phải làm. Bánh xe lịch sử phải quay. Thời
điểm và nơi bạn sống quyết định liệu bạn sẽ bị nó đè bẹp hay nâng đỡ.
Nhưng thế giới quan đó nhầm lẫn chủ nghĩa hoài
nghi – hay chủ nghĩa hiện thực – với sự khôn ngoan. Câu chuyện, nội dung của
nó, rất quan trọng. Cuối cùng, Bức tường Berlin sụp đổ không phải vì những nước
cờ được thực hiện trên bàn cờ của một ván cờ lớn mà là vì người dân phương Đông
muốn được sống như người dân phương Tây. Kinh tế, văn hóa đại chúng và các
phong trào xã hội đều quan trọng. Bất chấp nhiều sai sót, phương Tây có một hệ
thống và câu chuyện tốt hơn, hấp dẫn hơn.
Trớ trêu thay, một phần sức hấp dẫn của
Kissinger lại bắt nguồn từ thực tế rằng câu chuyện của ông mang đậm chất Mỹ.
Gia đình ông thoát khỏi bánh xe lịch sử vào ngay phút chót, chạy trốn khỏi Đức
Quốc xã đúng lúc Hitler bắt đầu tiến hành diệt chủng. Kissinger quay lại Đức với
tư cách một lính Mỹ và tham gia giải phóng một trại tập trung. Trải nghiệm này
đã khiến ông cảnh giác với hệ tư tưởng thiên sai (messianic) gắn liền với quyền
lực nhà nước. Nhưng ngay cả điều đó cũng không khiến ông có thiện cảm với những
người yếu thế. Nó cũng không thúc đẩy ông ràng buộc siêu cường Mỹ thời hậu chiến
trong chính mạng lưới các chuẩn mực, luật pháp và lòng trung thành với những
giá trị nhất định vốn được ghi trong trật tự thời hậu chiến do Mỹ lãnh đạo nhằm
ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới khác.
Suy cho cùng, uy tín không chỉ nằm ở việc bạn
có trừng phạt một đối thủ để răn đe các đối thủ khác hay không; mà còn là việc
bạn có làm đúng như những gì bạn nói hay không. Quan hệ giữa các nước dĩ nhiên
cũng không khác hơn quan hệ giữa con người với nhau là bao. Nhưng Hoa Kỳ đã phải
trả giá cho thói đạo đức giả của mình, mặc dù điều đó khó đo lường hơn là kết
quả của một cuộc chiến tranh hoặc đàm phán. Suốt nhiều thập niên, câu chuyện của
chúng ta về nền dân chủ đã trở nên rỗng tuếch đối với ngày càng nhiều người, những
người có thể chỉ ra những nơi mà hành động của Mỹ đi ngược với ý nghĩa của ngôn
từ, và “dân chủ” nghe như một cách Mỹ đi mở rộng lợi ích của mình. Tương tự như
vậy, trật tự quốc tế dựa trên luật lệ mà nước Mỹ nhấn mạnh đã bị những kẻ độc
tài phớt lờ, khi họ dùng chính hành động của Mỹ để biện minh cho tội lỗi của
mình.
Giờ đây bánh xe lịch sử đã hoàn tất một vòng
quay của nó. Trên khắp thế giới, chúng ta chứng kiến sự hồi sinh của chế độ
chuyên chế và chủ nghĩa dân tộc, rõ ràng nhất là trong cuộc chiến của Nga ở
Ukraine. Tại Gaza, Hoa Kỳ đang hỗ trợ cho Israel giết hại dân thường với tốc độ
khiến phần lớn thế giới một lần nữa cho rằng chúng ta rất chọn lọc trong việc
tuân thủ luật pháp và chuẩn mực quốc tế. Trong khi đó, ở trong nước, dân chủ đã
trở thành thứ yếu so với việc theo đuổi quyền lực trong quan điểm của một bộ phận
đảng Cộng hòa. Đây là nơi mà chủ nghĩa hoài nghi sẽ dẫn đầu. Bởi vì khi không
có khát vọng cao hơn, không có câu chuyện nào mang lại ý nghĩa cho hành động của
chúng ta, chính trị và địa chính trị sẽ chỉ là một trò chơi có tổng bằng không.
Trong thế giới đó, kẻ mạnh là kẻ đúng.
Tất cả những điều này không thể bị quy cho
mình Henry Kissinger. Ông vừa là tác giả, vừa là sản phẩm của bộ máy an ninh quốc
gia Mỹ. Nhưng câu chuyện của ông cũng là một câu chuyện mang tính cảnh báo. Dù
không hoàn hảo, nước Mỹ cần câu chuyện của chính mình để tồn tại. Nó là sợi dây
gắn kết nền dân chủ đa chủng tộc trong nước và phân biệt Mỹ với Nga và Trung Quốc.
Câu chuyện đó khẳng định rằng những đứa trẻ ở
Lào đều bình đẳng về nhân phẩm và giá trị như con cái chúng ta, và người dân
Chile cũng có quyền tự quyết như người Mỹ. Đối với Hoa Kỳ, đó phải là một phần
của an ninh quốc gia. Quên đi câu chuyện đó sẽ đặt chúng ta vào nguy hiểm.
----------------------
Ben Rhodes từng là phó cố vấn an ninh quốc gia Mỹ,
phụ trách soạn diễn văn và các vấn đề liên lạc của tổng thống Barack Obama.
Nguồn: Ben Rhodes, “Henry
Kissinger, the Hypocrite”, The New York Times, 30/11/2023.
No comments:
Post a Comment