18.01.2016
Trên báo Đại Đoàn Kết ở trong nước
ngày 10 tháng 1 năm 2016, có bài viết nhan đề “Đưa tiếng Việt ra thế giới”, tác giả ghi nhận một sự kiện:
Càng ngày việc học tiếng Việt ở nước ngoài càng phát triển mạnh mẽ. Có hai biểu
hiện chính: Một, ở Hàn Quốc, học sinh có thể chọn môn tiếng Việt như một môn
ngoại ngữ để thi vào đại học; và hai, ở Úc, “tiếng Việt là một trong năm ngoại
ngữ bắt buộc”. Cuối cùng, tác giả đưa ra ý kiến của một số người, cho rằng
chính quyền Việt Nam cần giúp đỡ việc dạy tiếng Việt ở hải ngoại qua ba biện
pháp: Một là mở các khoá tu nghiệp cho giáo viên; hai là biên soạn các cuốn
sách giáo khoa dạy tiếng Việt để các cộng đồng người Việt ở hải ngoại có thể sử
dụng; và ba là, trong các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài nên có thêm chức tuỳ
viên giáo dục chuyên trách về việc phát triển các trường Việt ngữ.
Bài báo kết thúc bằng lời phát biểu của ông Nguyễn
Thiện Nhân, chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Chúng ta gặp nhau với một tấm lòng người
trong nước hướng tới người nước ngoài cùng nhau lắng nghe để hiểu nhau hơn.
Trong bất cứ vấn đề gì cần sự chia sẻ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam sẵn sàng chung tay góp sức với đồng bào ở xa Tổ quốc”.
Thật ra, trong bài báo trên, có nhiều
chi tiết sai. Thứ nhất, ở Hàn Quốc, không phải học sinh có
thể chọn tiếng Việt như một ngoại ngữ để thi vào đại học mà là, vào đại học rồi,
sinh viên có thể chọn tiếng Việt như một ngoại ngữ để học. Hai khía cạnh ấy
khác nhau. Thứ hai, không phải chỉ ở Hàn Quốc, mà còn ở nhiều quốc gia
khác, như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật, Úc, v.v… tiếng Việt cũng được dạy như một ngoại
ngữ ở đại học. Thứ ba, ở Úc, tiếng Việt không phải là “một trong năm ngoại
ngữ bắt buộc”. Ở Úc, trừ tiếng Anh, không có ngôn ngữ nào là “bắt buộc” cả. Tiếng
Việt chỉ là một trong mười ngôn ngữ được ưu tiên giảng dạy ở bậc trung và tiểu
học. Nhưng nó không phải là ưu tiên nhất. Ưu tiên nhất là bốn ngôn ngữ: Nhật,
Hoa, Hàn và Indonesia, bốn nước Á châu có quan hệ kinh tế và chính trị đặc biệt
quan trọng đối với Úc.
Nhưng cái sai nhất của bài báo là nhấn
mạnh đến vai trò của chính quyền Việt Nam trong việc dạy tiếng Việt ở hải ngoại. Có thể nói, từ hơn 40 năm nay, ở hải ngoại, việc dạy tiếng Việt càng
lúc càng phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước khác nhau trên thế giới mà không hề cần
bất cứ sự trợ giúp nào của chính quyền Việt Nam. Hơn nữa, ở bất cứ đâu, khi
chính quyền Việt Nam nhúng tay vào, ở đó, việc dạy tiếng Việt đều bị chính trị
hoá, chỉ gây chia rẽ, và cuối cùng, chỉ dẫn đến thất bại.
Để nói đến các thành tựu trong việc dạy tiếng Việt ở
hải ngoại, chúng ta cần phân biệt hai đối tượng học sinh và sinh viên: Một là
những người ngoại quốc, và hai là trẻ em Việt Nam. Trong hai đối tượng ấy,
thành công nhất là đối tượng thứ hai: Cho đến nay, hầu hết các học sinh và sinh
viên học tiếng Việt tại các trường trung tiểu học cũng như đại học ở hải ngoại
đều là những người Việt thuộc thế hệ thứ hai hoặc thứ ba. Số người ngoại quốc học
tiếng Việt tương đối ít. Những người này học tiếng Việt vì hai, hoặc một trong
hai, lý do chính: Một là có vợ hoặc chồng (hoặc bạn gái/bạn trai) là người Việt
Nam; hai là muốn làm việc ở Việt Nam hoặc với người Việt Nam.
Đối với nhóm thứ nhất, tức học sinh và sinh viên người
Việt, hai nước thành công nhất là Úc và Mỹ. Ở Úc, nơi có hơn 200.000 người Việt
sinh sống, mỗi năm có gần 20.000 học sinh học tiếng Việt, từ lớp 1 đến lớp 12;
hơn một nửa số học sinh này nằm ở thành phố Melbourne thuộc tiểu bang Victoria.
Ở Mỹ, đặc biệt tại tiểu bang California, gần đây, chính phủ cho áp dụng phương
thức dạy song ngữ: học sinh, vào lớp, học bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt.
Những thành tựu như thế từ đâu mà có?
Trước hết là do chính sách của chính phủ sở tại. Ở Mỹ,
việc dạy song ngữ là một chủ trương chung của nhiều tiểu bang. Tại Úc, với chủ
trương đa văn hoá, chính phủ khuyến khích người dân, ngoài việc học tiếng Anh,
cố gắng duy trì tiếng mẹ đẻ và văn hoá truyền thống. Đó không phải là chủ
trương suông trên lý thuyết. Chính phủ Úc còn hiện thực hoá chủ trương ấy bằng
cách tài trợ cho các trường dạy ngôn ngữ sắc tộc để các trường ấy đủ tiền thuê
mặt bằng dạy học cũng như trả lương cho các giáo viên.
Thứ hai là do nhiệt tình của phụ huynh người Việt.
Phải nói ngay là phần lớn người Việt Nam, tuy sống ở nước ngoài, vẫn nỗ lực duy
trì tiếng Việt không những đối với thế hệ thứ hai (những người sinh ra ở ngoại
quốc) mà còn đối với cả thế hệ thứ ba (con cái của những người sinh ra ở ngoại
quốc). Ở đâu có cộng đồng người Việt ở đó cũng đều có các trường Việt ngữ với
những quy mô khác nhau. Nếu chính phủ địa phương không tài trợ, phụ huynh tự
đóng góp để thuê phòng ốc; còn giáo viên thì dạy thiện nguyện, không đòi hỏi bất
cứ một thù lao nào cả.
Ở các trường ấy, người ta có cần sách giáo khoa do
Việt Nam biên soạn và cung cấp không?
Câu trả lời rất rõ là: Không.
Câu trả lời rất rõ là: Không.
Lý do đầu tiên là tôi không tin ở Việt Nam người ta
có thể biên soạn được một bộ sách giáo khoa về tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ
hai có giá trị. Qua những bộ sách dạy tiếng Việt xuất bản trong nước, tôi thấy
rõ một điều: phần lớn các tác giả không phân biệt được tiếng Việt như một ngôn
ngữ thứ nhất và tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai. Hơn nữa, phương pháp giảng
dạy ngôn ngữ của họ khá cũ, và do đó, rất ít có hy vọng có kết quả khả quan.
Lý do thứ hai là ở Tây phương, trong các lớp ngôn ngữ,
trong đó có cả tiếng Việt, các giáo viên không nhất thiết cần có một bộ sách
giáo khoa riêng. Thường, Bộ Giáo dục chỉ đưa ra một cái khung chung, bao gồm đề
tài và các yêu cầu về từ vựng cũng như kiến thức văn hoá, dựa theo đó, các giáo
viên sẽ tự soạn lấy bài giảng cho mình. Chủ trương ấy xuất phát từ quan điểm:
chỉ có giáo viên trực tiếp đứng lớp là hiểu rõ nhất về yêu cầu cũng như trình độ
của học sinh để có thể đưa ra một tài liệu giảng dạy cụ thể và thích hợp.
Một lý do khác là ở hải ngoại từ mấy thập niên vừa
qua đã có nhiều người biên soạn sách giáo khoa để dạy tiếng Việt. Một số trong
các cuốn sách ấy được biên soạn dựa trên những phương pháp giảng dạy ngôn ngữ
khá mới, có thể được sử dụng để giảng dạy ở các lớp Việt ngữ.
Có thể nói một cách tóm tắt: chính quyền Việt Nam
không nên nhúng tay vào việc dạy tiếng Việt ở hải ngoại. Đó là lãnh vực mà cộng
đồng người Việt ở hải ngoại có thể tự lo liệu lấy.
---------------------------------
* Blog của Tiến sĩ
Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng
ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
XEM
THÊM :
Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-04-02
2015-04-02
No comments:
Post a Comment