samedi
2 janvier 2016
Khủng hoảng về nhân sự trong đảng CSVN kỳ đại hội
này có nhiều phần giống khủng hoảng nhân sự thời kỳ “hậu đổi mới”. Thời kỳ hậu
đổi mới bắt đầu từ cuối nhiệm kỳ TBT của ông Nguyễn Văn Linh cho đến Hội nghị
Thành Đô tháng 9 năm 1990. Thời kỳ này, khối XHCN do LX lãnh đạo bị sụp đổ, nội
bộ đảng CSVN phân vân giữa hai ngả đường: hòa với Mỹ để phát triển hay ngả về
Tàu để bảo vệ thành trì XHCN.
Vấn đề “lựa chọn” đặt ra có vẻ đơn giản. Bởi vì sau
1975, VN đã đối đầu với TQ qua cuộc chiến biên giới 1979. Cuộc chiến “dạy cho
VN một bài học” của Đặng Tiểu Bình không chấm dứt sau khi TQ rút quân về, mà tiếp
tục dai dẵn trên vùng biên giới cho đến cuối năm 1989. Cùng lúc đối đầu với TQ ở
biên giới phía bắc, phía tây nam VN mở cuộc chiến chống quân Polpot (được TQ hỗ
trợ sau lưng). Tức quan hệ giữa hai bên VN và TQ là quan hệ kẻ thù không đội trời
chung.
Trong khi đó, đối với Mỹ, sau cuộc chiến 1975 VN là
kẻ thù không thể dung thứ. VN bị Mỹ cấm vận cho tới thập niên 90. Nên biết
trong cuộc chiến chống Polpot, Mỹ đã cùng với TQ, vốn là hai phe đối nghịch về
ý thức hệ, giúp cho Polpot để đánh VN. Tức là, VN vừa là kẻ thù của TQ, vừa là
kẻ thù của Mỹ.
Việc lựa chọn bên nào để “giảng hòa” đều không đơn
giản. Đi với phe nào cái giá phải trả đều rất đắt. Đi với Mỹ, đất nước chắc chắn
sẽ phát triển, như Đài Loan, Hàn Quốc, nhưng chế độ chính trị phải thay đổi.
Cái giá phải trả là dân chủ hóa chế độ. Còn đi với TQ, đảng CSVN sẽ được bảo đảm
tồn tại, nhưng cái giá phải trả là đất nước thì phải sa vào vòng lệ thuộc (kinh
tế và ý thức hệ).
Mọi người đều biết, phe chủ trương làm hòa với TQ thắng
thế.
Quyền lợi của đảng được đặt nặng hơn quyền lợi của đất nước.
Theo một số tài liệu, qua trung gian của Lê Đức Anh,
lúc đó là Bộ trưởng bộ Quốc phòng, quan hệ được thiết lập với phía TQ. Nhờ đó
Phạm Văn Đồng đã dẫn Nguyễn Văn Linh và Đổ Mười sang Thành Đô (thủ phủ Tứ
Xuyên) để hội kiến với Giang Trạch Dân và Lý Bằng (vào hai ngày 3 và 4 tháng 9
năm 1990) để thương lượng việc bình thường hóa ngoại giao giữa hai nước.
Hồi ký Trần Quang Cơ đã nói về hệ quả của Hội nghị
Thành Đô ở vấn đề Campuchia. Việc nhượng bộ của VN ở vấn đề Campuchia chỉ là một
phần của “gói điều kiện” để VN bình thường hóa với TQ.
Về chủ quyền lãnh thổ, hai bên VN và TQ nhìn nhận những
sự việc đã xảy ra trong quá khứ thì không nhắc tới nữa. Điều này hàm ý, những
vùng lãnh thổ mà TQ chiếm được của VN (trước 1990) thì không nhắc tới nữa.
Chúng thuộc về TQ.
VN nhượng cho TQ những cao điểm, những vùng đất quan
trọng về kinh tế và chiến lược, mà TQ đã chiếm được trong cuộc chiến biên giới
(từ năm 1979 cho đến 1989). Trên biển thì VN nhìn nhận hành vi thụ đắc chủ quyền
lãnh thổ (bằng vũ lực) của TQ tại một số bãi của VN tại TS (biến cố Gạc Ma
1988), cũng như mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS.
Đổi lại, VN được TQ đồng ý thiết lập bang giao. Về
chính trị, VN trở thành một phần tử của thành trì xã hội chủ nghĩa do TQ lãnh đạo.
Theo “chính sử”, hiện nay có hai ý kiến. Phe thứ nhứt ủng hộ thái độ (dắt mối) của Lê Đức Anh. Phe này cho rằng nhờ Lê Đức Anh mà VN mới thoát khỏi “vùng xoáy của nước lớn”. Phe thứ hai ủng hộ lập trường “hòa Mỹ” của Nguyễn Cơ Thạch. Phe này cho rằng hội nghị Thành Đô đã mở đầu nền Bắc thuộc mới.
Từ hôm nay nhìn lại, dĩ nhiên ta thấy ý kiến “hòa Mỹ”
của Nguyễn Cơ Thạch có lợi cho đất nước và dân tộc hơn: đất nước được phát triển
sớm hơn, với nhịp điệu nhanh chóng và chắc chắn hơn. Sự toàn vẹn lãnh thổ cũng
được bảo toàn.
VN hiện nay đã trở thành thuộc địa (kiểu mới) của
TQ. Về kinh tế, chỉ nhìn cán cân thương mãi luôn nghiêng về phía TQ (hàng năm
khoảng trên 30 tỉ đô la) ta thấy được một phần của tảng băng. Hàng hóa của TQ
tràn ngập VN. Hầu hết những công trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở VN đều do phía
TQ trúng thầu. VN cũng ký kết nhiều hiệp ước bất bình đẳng với TQ, cho phép họ
khai thác khoán sản (bô xít) bất kể thiệt hại môi trường…
Do lệ thuộc vào TQ mà VN không thể phát triển một
cách bình thường như những nước khác trong khu vực.
Nguyễn Cơ Thạch xem lợi ích của đất nước và dân tộc
là quan trọng, chủ trương hòa với Mỹ để đất nước phát triển và sinh tồn. Trong
khi Lê Đức Anh chủ trương lệ thuộc vào TQ để đảng được sinh tồn.
Cái gọi là “vùng xoáy của nước lớn” không hề hiện hữu.
LX (và khối XHCN) sụp đổ, VN “mồ côi” điểm tựa. Có hai đường để đi: lệ thuộc TQ
hay hòa với Mỹ ? Lê Đức Anh (và ông Đồng, ông Mười) đã lựa chọn cho VN con đường
tồi tệ nhứt.
Đại hội đại biểu toàn quốc diễn ra vào tháng 6 năm
1991, Đổ Mười được bầu làm Tổng bí thư, Võ Văn Kiệt làm thủ tướng. Năm sau,
9-1992, Lê Đức Anh lên làm chủ tịch nước.
Đổ Mười được bầu làm TBT đáng lẽ hai nhiệm kỳ. Nhưng
khủng hoảng về nhân sự “cá đối bằng đầu” trong đảng thời kỳ này đã bộc lộ. Về sự
nghiệp chính trị người nào cũng sàng sàng như nhau. Về công lao đóng góp không
ai trội hơn ai. Họ tranh dành ngôi lãnh đạo bằng thủ đoạn, bằng phe nhóm quyền
lực…, gọi chung là “bản lãnh chính trị” chớ không bằng tài năng kinh bang tế thế
thật sự.
Đại hội VIII (tháng 6-1996) bầu Đổ Mười tiếp tục làm TBT, nhưng đến tháng 12-1997 (hội nghị lần thứ tư) thì họ Đổ bị Lê Khả Phiêu “lật”.
Nghe nói nguyên nhân ông Phiêu “lật” được Đổ Mười là
do nắm được “hồ sơ” Hội nghị Thành Đô 1990.
Lê Khả Phiêu lên TBT tháng 12-1997 (Hội nghị lần thứ
tư, Đại hội TƯ VII). Nhưng đến tháng tư năm 2001, nhiệm kỳ TBT chưa đủ, Lê Khả
Phiêu bị Đổ Mười trả thù, “lật” lại.
Cũng nghe nói Lê Khả Phiêu bị Đổ Mười (và Lê Đức
Anh) hạ bệ bằng hồ sơ “bán đất nhượng biển”. Nếu đúng vậy thì cũng (hơi) oan
cho LK Phiêu. Các vụ “bán đất nhượng biển” này đều không có, vì qua hội nghị
Thành Đô mấy ông PV Đồng, Đổ Mười và NV Linh đã “bán” rồi.
Người ta không thể “bán” một vật đến hai lần. Ông
Phiêu chỉ có “tội” là nhìn nhận có 3 vùng biển tranh chấp (trong đó có vùng biển
TS).
Thời kỳ này, tranh chấp giữa “các ông cố vấn” sâu sắc
đến nỗi không thể dàn xếp. Đổ Mười và Lê Đức Anh thân TQ, còn VV Kiệt (nghe
nói) có khuynh hướng thân Mỹ. Nhưng chủ trương chung vẫn là thân cận với TQ.
Nông Đức Mạnh được các bên tranh chấp chọn làm TBT
như là một giải pháp trung dung. Tiếp theo họ Nông, ông Nguyễn Phú Trọng cũng
được “các ông cố vấn” lựa chọn như là giải pháp “kế thừa” đường lối thân TQ.
Giải pháp trung dung thực ra không phải là một giải
pháp. Nó chỉ là việc “giữ nguyên trạng” sự nghiệp thân TQ, do mấy ông cố vấn
xây dựng từ hội nghị Thành Đô.
15 năm qua, hai nhiệm kỳ họ Nông và một nhiệm kỳ NP
Trọng, đất nước dặm chân tại chỗ (trong vòng ảnh hưởng của TQ).
Hội nghị XII, ảnh hưởng của các ông “cố vấn” đã tàn
phai. Tranh chấp do khủng hoảng “cá đối bằng đầu” lần nữa lại bôc phát trong nội
bộ đảng. Lần này xem ra mãnh liệt hơn kỳ trước. Kẻ lên voi, người xuống chó đã
đành.
Nếu xét thế lực giữa cá nhân; các bên Sang, Trong,
Hùng, Dũng; phe ông Dũng có phần trội, vì ông này đã ba nhiệm kỳ giữ chức thủ
tướng. Trước đó ông này đã từng làm việc (thứ trưởng) bộ Công an, làm thống đốc
ngân hàng. Ông này lại còn được thế lực của phe Lê Đức Anh chống lưng. Nhân sự
trung ương (200 người), hơn 1/2 thân ông Dũng. Thế lực của phe ông Dũng, tương
tự như mafia, nắm hầu hết các nguồn kinh tài trong đảng, như sợi chỉ đỏ xuyên
suốt con rắn đỏ là đảng cộng sản.
Nếu bầu TBT theo điều lệ đảng, chắc chắn Đại hội đại
biểu toàn quốc (Đại hội TƯ) sẽ bầu cho ông Dũng.
Nhưng tâm lý “cá đối bằng đầu”, tại sao mày mà không
phải tao ? Ba ông còn lại, ông nào cũng muốn chiếc ghế TBT.
Do thế yếu, hai ông Sang và Hùng có khuynh hướng
“liên minh” với ông Trọng. Ông Trọng đã thành công thay đổi một số điều lệ đảng,
làm cho việc bầu bán không còn thuận lợi cho phía ông Dũng nữa. Ông Trọng còn đặt
ra một số “tiêu chuẩn” như TBT phải là người miền Bắc, biết lý luận v.v… Phe
ông Dũng cũng vậy, cho rằng TBT phải là người có dáng vẻ bề ngoài… Điều này cho
thấy trí tuệ của các phe đều nông cạn. Họ phải làm những việc có thể ảnh hưởng
đến tính “chính đáng” của người lãnh đạo.
Nói là liên minh, ông Sang (hay ông Hùng) đều có
tính toán trong nước cờ. Nếu hai bên Trọng và Dũng đấu nhau, bất phân thắng bại
thì ông Sang hay ông Hùng đều có thể là giải pháp.
Vấn đề là, trong thời gian dài nắm quyền lực, ông
Dũng đã gây nợ máu cho rất nhiều người. Nếu ông Dũng xuống thì tính mạng của
ông, cũng như của con cái, thập chí cả giòng họ… sẽ không còn an toàn.
Ông Dũng vì vậy sẽ không bao giờ chấp nhận “xuống” một
cách đơn giản như vậy.
Một giải pháp “trung dung” cũng khó mà thành hình.
Chức vụ TBT, theo truyền thống đảng CSVN, không thể giao cho phe công an (TD
Quang). TBT cũng không thể giao cho phe quân đội. Ở BCT, phe thân ông Dũng
không có mấy người.
Vừa rồi có tin đồn TQ can thiệp vào nội bộ đại hội
XII. Thực ra cả bốn ông, ông nào cũng thân TQ.
Vấn đề là hiện nay TQ đã làm quá lố, đến mưc không
thể biện hộ được ở Biển Đông, như xây dựng các đảo nhân tạo. Mới đây lại cho
máy bay quân sự ra thử phi đạo ở đá Chữ Thập. Sẽ không bao lâu TQ thôn tính các
đảo khác thuộc TS để áp đặt vùng “nhận diện phòng không” ở Biển Đông.
Các ông Sang, Trọng, Hùng, Dũng cho dầu thân TQ đến
cách mấy cũng không thể không mở miệng phản đối. Dầu gì trong đảng cũng có người
đặt quyền lợi của đất nước lên trên.
Phe ông Dũng, mạnh miệng chống TQ hơn, nhưng mặc áo
không qua khỏi đầu. Nói để cho sướng miệng, mát lòng người dân, như đều là giả
dối.
Những phản đối của VN hiện nay là chỉ phản đối
suông, làm cho có, như công hàm mới đây gởi LHQ nhằm phản biện lý lẽ công hàm của
TQ gởi LHQ trước đó.
Nhưng áp lực (và tham vọng) của TQ ở Biển Đông có thể
làm thay đổi một vài ẩn số.
Ông Trọng tháng 7 vừa rồi có chuyến thăm Mỹ. Lần đầu
tiên tổng thống Mỹ tiếp đón lãnh đạo đảng CSVN tại văn phòng Tòa Bạch ốc. Thông
cáo chung hai bên cho thấy Mỹ sẽ tôn trọng thể chế chính trị của VN. Điều này
cho thấy vấn đề thể chế không phải là một cản trở trong quan hệ hai nước. Tức
là, nếu ông Trọng có ý muốn ngả về Mỹ thì người Mỹ có thể ủng hộ ông Trọng.
Vì vậy có lần tôi viết rằng, cũng có thể là điều tốt
nếu để ông Trọng làm thêm 1/2 nhiệm kỳ TBT nữa để ông này hoàn tất công trình
“hòa Mỹ” của ông. Có thể tôi nhận xét sai lầm về con người ông Trọng. Nhưng nếu
đó là một giải pháp thì sẽ tốt hơn cho VN rất nhiều (nếu chức TBT giao cho ông
Dũng). Vấn đề là đến bây giờ thì chưa thấy dấu hiệu nào từ ông Trọng để người
ta tin tưởng vào công trình “hòa Mỹ” của ông.
Trên quan điểm quyền lợi của dân tộc và đất nước
(như đã viết trong một status trước), giải pháp tốt nhứt cho VN hiện nay là đảng
CSVN giải tán. Tứ trụ lập ra mỗi người một đảng. Hiến pháp viết lại để nền
chính trị đa nguyên được áp dụng cho đất nước. Một đạo luật về “xá tội” để những
người như ông Dũng yên tâm hoạt động chính trị. Người lãnh đạo sẽ có chính danh
vì được người dân lựa chọn.
Còn nếu đứng trên quyền lợi của cá nhân, của đảng, của
phe phái trong đảng… có thể Đại hội XII sẽ tìm ra một giải pháp trung dung vào
tháng 6 năm 2016. Nhưng đó chỉ là tạm thời. Vì mỗi lần tranh chấp nhân sự lãnh
đạo là hiện tượng “cá đối bằng đầu” lại xảy ra. Không ai chịu ai. Người lãnh đạo
không có tính chính danh. Cũng như đảng CSVN đã không còn tính chính đáng để tiếp
tục vai trò lãnh đạo. Xã hội chờ ngày bùng nổ để các mâu thuẩn được giải quyết
bằng bạo lực.
No comments:
Post a Comment