Bằng Phong Đặng Văn Âu
Posted by adminbasam on
03/01/2016
Lâu nay, vì trăn trở chuyện nước non, tôi thường viết
những bài tham luận theo quan điểm cá nhân, thì có độc giả đồng ý và không đồng
ý. Hôm nay, một ngày đầu năm 2016 – 01 tháng Giêng – viết bài này, tôi tin chắc
mọi người sẽ xúc động, vì đây là một đề tài của tình yêu thương rất đáng trân
trọng.
Vào một buổi sáng, tiết trời se se lạnh, sắc trời u
ám vì những đám mây vần vũ trên cao, một khung cảnh buồn rất ít khi thấy ở nơi
tôi cư ngụ thường chan hòa nắng thủy tinh và gió nhè nhẹ, bỗng nhiên tôi nhận
được điện thoại của một người bạn từ Bắc California gọi: “Âu ơi! Lê Phước Cung
đây, bạn còn nhớ Phan Khôi khóa moa không?”. Tôi đáp: “Nhớ! Phan Khôi khóa của
toa, nhưng học bay cùng khóa với moa. Mà sao? Có chuyện gì quan trọng khiến toa
gọi moa với vẻ cấp thiết như vậy?”
Phan Khôi, phi công
A-1 Skyraider của Phi đoàn 522. Ảnh do tác giả cung cấp.
Ở đây, tôi phải giải thích để độc giả khỏi ngỡ
ngàng, trước khi kể nốt câu chuyện. Những thanh niên gia nhập Không Quân, vào
trường huấn luyện quân sự Nha Trang năm 1961, được gọi là Khóa 61. Vì nhu cầu
chiến trường, qua năm 1962 một số sinh viên sĩ quan từ trường Bộ binh Thủ Đức
đã học xong phần quân sự được chuyển sang Không Quân, cũng vào căn cứ huấn luyện
Nha Trang học Anh ngữ để chuẩn bị được gửi đi du học Hoa Kỳ. Cũng năm 1962,
tháng 4, Không Quân lại tuyển mộ thêm 90 thanh niên để gửi ra Nha Trang vừa học
quân sự vừa học Anh ngữ. Trong một năm có hai khóa, nên những anh em từ Thủ Đức
sang được gọi là Khóa 62A và 90 anh em dân sự được gọi là Khóa 62B.
Phan Khôi thuộc Khóa 61 và tôi là thành phần của
Khóa 62B.
Hai tiêu chuẩn để được chọn đi học Hoa Kỳ trước hay
sau là do kết quả thi Anh ngữ và điều tra An Ninh. Sau vụ ném bom Dinh Độc Lập
của hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử, vấn đề An Ninh được đặt ra khắt
khe hơn. Nhiều anh em đạt điểm cao Anh ngữ, nhưng lý lịch An Ninh cần sưu tra
thêm thì ưu tiên đi học Mỹ chậm. Hoặc An Ninh không có vấn đề, nhưng điểm thi
Anh ngữ thấp thì vẫn bị đi chậm. Tôi không rõ lý do nào, vì Anh ngữ hay vì An
Ninh, Phan Khôi Khóa 61 đi sang Mỹ học bay cùng lúc với tôi (Khóa 62B) tại căn
cứ Moody AFB, tiểu bang Georgia. Cho nên, nếu tính từ trường quân sự Nha Trang
thì Phan Khôi cùng khóa 61 với Lê Phước Cung; còn nếu tính ở trường bay Moody
AFB thì Phan Khôi cùng Khóa 63D-2 với tôi.
Xin nói thêm một mẩu chuyện vui vui. Anh em Khóa 61
tất nhiên là Niên trưởng Khóa 62B chúng tôi, nên họ có quyền “dợt” khóa đàn em
muốn tắt thở luôn. Nhưng khi cùng đi học bay một lúc, các bạn thuộc Khóa 61
không lên mặt “Niên trưởng” với chúng tôi nữa. Và khi ở quân trường bị đàn anh
“huấn nhục” một cách quá đáng, tức tối cành hông, tưởng chừng sẽ trả thù khi có
cơ hội. Thế nhưng khi anh trước, em sau cùng lên đường học một khóa, thì sự tức
tối cũ bỗng nhiên tan biến. Vì có sự kiện nhập nhằng khóa trước “ắc ê” ở quân
trường Nha Trang lại ra trường phi hành ở Mỹ sau, nên chẳng biết ai là Niên trưởng
của ai. Đó là chuyện vui đời lính trước ngày Miền Nam sụp đổ năm 1975. Sau này,
giã từ vũ khí, chẳng còn ai đặt vấn đề Niên trưởng nữa, mà chỉ còn lại tấm lòng
yêu thương nhau thôi.
Trở lại cuộc điện đàm với Lê Phước Cung. Anh hỏi:
“Toa còn nhớ Phan Khôi gặp nạn năm 1966 trong một phi vụ biểu diễn (Air Show)
trước sân cờ Bộ Tư Lệnh KQ? Tôi đáp: “Nhớ chứ! Có chuyện gì mà toa nhắc tới
Phan Khôi vậy?” Cung cho tôi biết rằng vợ và con gái của Phan Khôi đã cất công
30 năm để đi tìm những người thầy, những bạn bè cùng khóa với Phan Khôi để cho
con gái biết về một thuở kiêu hùng của bố. Nghe tin đó, trong tôi dậy lên một cảm
giác vui mừng, xúc động. Vui mừng vì sẽ được trò chuyện với chị Phan Khôi mà tưởng
chừng như không bao giờ nghe được tin tức về cuộc sống của người quả phụ có chồng
ra đi khi còn quá trẻ. Xúc động vì tự hỏi trên đời làm sao có sự lạ về người
con gái mất bố lúc lên một (1) tuổi mà lại dành suốt 30 năm cố tìm cho bằng được
người thầy dạy bay vỡ lòng và những bạn bè của bố. Cung cho tôi số điện thoại của
chị Phan Khôi.
Tôi gọi điện thoại cho chị Ngọc Bích (vợ của Khôi).
Phía bên kia điện thoại, tôi nghe được tiếng reo vui của chị khi được nghe tôi
nói tôi là bạn cùng khóa bay với Khôi. Chị cho biết hiện chị đang ở San Diego,
cách nơi tôi ở chừng 2 giờ lái xe. Và hai ngày nữa chị sẽ đi Nebraska. Chị kể
sơ qua về gia cảnh: Khôi học trường Yersin ở Đà Lạt và chị học trường đạo cũng ở
Đà Lạt. Khôi Phật giáo, chị Công giáo. Dù khác tôn giáo, tín ngưỡng, nhưng Thần
Ái Tình đã xe duyên Khôi và Ngọc Bích. Lúc Khôi lâm nạn mới mang lon Trung Úy,
vợ chồng Khôi đã có ba con (một trai hai gái). Cô con gái út mới một tuổi, là
cô đã dành 30 năm đi tìm lại hình ảnh của bố. Chị cho tôi số điện thoại của cô
con gái út, cháu Erika. Sau khi dứt cuộc điện đàm với chị Ngọc Bích, tôi gọi
ngay cho cháu Erika.
Phía bên kia điện thoại cũng vang lên tiếng cười vui
sướng giống Mẹ, khi tôi tự giới thiệu tôi là bạn của bố cháu. Tôi cho Erika biết
rằng có một người mang tên Khôi như bố cháu – Nguyễn Mộng Khôi – học cùng một
thầy với bố cháu và hiện cư ngụ tại một nơi không xa nơi bác đang ở. Erika lại
mừng hơn. Vì Erika lớn lên ở Mỹ, nên tiếng Việt nói không thạo. Hai bác cháu
trao đổi nhau bằng tiếng Anh. Erika thao thao kể công trình đi tìm hình ảnh bố
ra sao và thu thập được thành một cuốn Album, mà cháu xem như là di sản của bố
để lại. Nhân dịp các vị thầy dạy lái máy bay (Pilot Instructors) sẽ có cuộc họp
mặt hàng năm ở San Diego, Erika muốn mời những bạn bè của bố về San Diego để
cháu được gặp và để các bác gặp lại thầy cũ của các bác.
Từ lâu, tôi vẫn ao ước gặp lại thầy dạy bay đầu đời
của mình. Nhưng tôi có điều tệ hại rất đáng trách, là không chuyên tâm đi tìm
thầy cũ để nói một lời cảm ơn. Cháu Erika cho biết vào ngày 12 tháng Giêng năm
2016 thì cuộc hội ngộ thầy trò sẽ diễn ra tại thành phố San Diego. Tôi vội vàng
báo tin đó cho tất cả bạn bè xuất thân hai Khóa Phi hành 63-D1 và 63-D2 về cuộc
họp mặt đó bằng email và bằng điện thoại cho người bạn ở gần tôi: Sinh viên Sĩ
quan Nguyễn Mộng Khôi. Được tin, Mộng Khôi cũng tỏ ra vui mừng không khác gì
tôi.
Từ trái sang phải: Phan Khôi – Thầy Ruff Doyle (nay
là Đại tá hồi hưu) – Nguyễn Mộng Khôi. Ảnh do tác giả cung cấp.
Qua hôm sau, cháu Erika gọi điện thoại ngỏ ý muốn mời
Khôi và tôi đi ăn để gặp mặt ngay, vì không thể chờ tới ngày 12 tháng Giêng được.
Chúng tôi đều sung sướng nhận lời. Vợ chồng Mộng Khôi đến nhà tôi chờ hai mẹ
con cháu Erika đến để cùng đi ra tiệm ăn. Đúng giờ hẹn, hai mẹ con cháu Erika đến.
Vợ chồng Mộng Khôi và tôi ra tận bãi đậu xe trước nhà để đón. Thật là vui mừng
khôn xiết. Chị Ngọc Bích rất trẻ, khỏe mạnh. Cháu Erika cao lớn gần bằng bố và
hoạt bát. Trên tay cháu mang hai gói quà để tặng hai người bạn của bố. Trong
giây phút mừng vui đó, tôi ôm cháu Erika mà có cảm tưởng như ôm đứa con gái của
chính mình sinh ra. Tôi nghĩ, dù bất cứ người nào có tâm hồn cứng rắn đến mấy,
cũng không thể giấu nỗi hân hoan khi ôm vào lòng mình đứa con gái của bạn đã
kiên nhẫn đi kiếm tìm cho kỳ được những người bạn đồng đội cũ của bố. Tôi đã ứa
nước mắt và nghèn nghẹn nói bên tai cháu: Bác cám ơn con! Món quà Giáng sinh mà
con vừa trao cho bác đã quý hóa; nhưng chính con mới là món quà Giáng sinh đặc
biệt của bố con cho bác hôm nay. Bác sẽ nhớ đời đời.
Erika gọi những món ăn ngon nhất của nhà hàng và thức
ăn la liệt trên bàn, nhưng tôi quá đỗi vui sướng để nghe những mẩu chuyện do
nàng kể, nên chểnh mảng ăn uống. Đặc biệt một chuyện Erika kể liên quan đến tâm
linh làm tôi nhớ đến chuyện mà tôi đã kể trong sách Không Quân Ngoại Truyện.
Cháu nói: “Bác ạ! Sự thành công mà cháu đạt được ngày hôm nay là do vong linh của
bố cháu hướng dẫn. Bố cháu thiêng lắm bác!”. Bố tôi cũng linh thiêng lắm. Một
hôm, trong giấc mơ tôi thấy bố tôi hiện về và nói: “Ngày mai, con đi bay phải hết
sức cẩn thận. Rất có thể nguy đến tính mạng!”. Tôi bèn phục xuống chân bố, van
lơn: “Thầy cứu con! Vợ con còn quá trẻ, các con của con còn dại! Con sợ vợ con
không thể nuôi dạy các con của con!”. Bố tôi nâng tôi dậy và nói: “Được rồi! Thầy
sẽ ra sức cứu con!”. Nói xong, bố tôi biến mất. Sau giấc mơ đó, tôi cứ trằn trọc
mãi. Nhưng sáng vào phi đoàn sửa soạn phi vụ thì tôi hoàn toàn quên hẳn giấc mơ
kinh hoàng đêm qua.
Đó là phi vụ thả dù tiếp tế đạn trọng pháo cho Tiểu
khu Bình Long, An Lộc đang bị địch bao vây. Nơi mà nhiều phi cơ đủ loại từ quan
sát đến trực thăng, khu trục và vận tải đã gẫy cánh. Theo nguyên tắc phi hành,
người phi công phải giữ bàn đạp (flight rudder pedals) sao cho quả bi thăng bằng
nằm vị trí ở giữa, thì kiện hàng thả xuống mới rơi đúng mục tiêu. Thế mà trong
giây phút phi cơ tôi trên mục tiêu, chẳng hiểu có một lực gì đó khiến tôi vừa bỏ
chân trái ra thì phát đạn phòng không bắn lên làm nát bàn đạp, trổ lên trần
phòng lái (cockpit) một lỗ lớn, khói mịt mùng. Thật hú vía! Nếu phi cơ trên mục
tiêu sớm vài “nano” giây thì viên đạn phòng không đó sẽ trúng vào khoan chứa đạn
đại bác, phi cơ của tôi nổ tan tành trên không trung. Hoặc nếu chân trái của
tôi không rời bàn đạp thì làm sao điều khiển chiếc phi cơ bay trở về căn cứ?
Tôi tin bố tôi đã cứu mạng tôi và vì thế tôi tin linh hồn Phan Khôi đã dẫn dắt
cho cô con gái út gặp sự may mắn, thành công trên đường đời mới có phương tiện
để tìm thầy, tìm bạn của bố mình?
Bố nuôi tinh thần và con gái Erika tựa vào vai bố Đặng
văn Âu. Ảnh do tác giả cung cấp
Như một phản xạ, tự nhiên
tôi nói: “Erika! Con là con của bố! Bố sẽ yêu quý con hơn con đẻ của bố! Bố sẽ
yêu quý con suốt đời! Trên đời này có những đứa trẻ làm ăn thành đạt mà thờ ơ,
để cho bố hoặc mẹ mòn mỏi trong nhà già. Trái lại, con có tấm lòng hiếu thảo
quá sức tuyệt vời!”. Lẽ ra tôi phải xin phép chị Ngọc Bích mới được phép nói ra
điều đó. Cháu Erika đáp lại rất nhanh, không một giây lưỡng lự, suy nghĩ:
“Vâng, từ nay con sẽ là con của bố! Bố sẽ là bố nuôi của con!”. Tôi rưng rưng
đáp: “Bố không nuôi con ngày nào! Bố không đáng là bố nuôi của con! Đây là món
quà Giáng sinh đặc biệt mà bố Phan Khôi mang lại cho bố và bố xin trân trọng nhận
lãnh từ tay của bố con!”.
Erika ngước mắt lên trần
nhà, nhỏ nhẹ nói vào khoảng không: “Bố có nghe bố Âu nói gì không? Bố Âu hứa sẽ
thương yêu, quý mến con suốt đời đó!”. Tự nhiên tôi nổi da gà, có cảm giác linh
hồn Phan Khôi đang hiện diện trong gian phòng. Nụ cười hiền lành, chiếc răng khểnh
thật duyên ngày xưa còn đó!
Kể từ sau buổi gặp gỡ ấy,
những người thầy Hoa Kỳ và một số anh em trong khóa của Phan Khôi đều liên lạc
nhau qua email. Không ngờ chị Ngọc Bích – mẹ cháu Erika – rất sính thơ văn. Chị
thường gửi cho chúng tôi xem những mẩu chuyện tình của chị với chàng phi công
trẻ tuổi. Chị làm một bài thơ dài khi về Việt Nam thăm mộ của Phan Khôi vào năm
2013. Chị kể: “Sau khi Phan Khôi mất, sang Hoa Kỳ năm 1975, có một chàng bác sĩ
họ Nguyễn yêu chị và thương ba đứa con riêng của chị, nên chi đồng ý lập gia
đình một lần nữa và sinh hạ ba người con. Cộng chung, chị Ngọc Bích có 6 người
con đều thành đạt trong xã hội. Mặc dầu chị luôn luôn nhớ thương người chồng
cũ, dạy cho các con hiểu Phan Khôi là người đàn ông lý tưởng, nhưng bác sĩ Nguyễn
không hề tỏ ra ghen tương. Chính vì thế mà các con của chị mất cha lúc còn nhỏ,
nhưng trong tâm trí các con chị luôn luôn thần tượng người cha của mình. Tấm
lòng rộng lượng của bác sĩ Nguyễn rất đáng quý, luôn luôn cảm thông tình cảm của
vợ đối với người yêu đầu đời của nàng. Chúng tôi xin gửi đến bác sĩ Nguyễn sự mến
phục.
Giáng sinh vừa rồi – 2015
– chị Ngọc Bích gửi thiệp Noel cho anh em chúng tôi với lời chúc tụng hết sức
ân cần. Tôi thay mặt anh em trong khóa, viết đôi dòng gửi đến chị để bày tỏ sự
quý mến và ngưỡng mộ một người phụ nữ Việt Nam. Thư viết như sau:
Mộ phần của Phan Khôi ở Việt Nam. Ảnh do tác giả
cung cấp
“Thưa chị Ngọc Bích, bà quả phụ của phi công Phan
Khôi,
Năm nay anh em trong khóa chúng tôi nhận được một
món quà Giáng Sinh và Năm Mới hết sức đặc biệt. Món quà không được trao từ Ông
Già Noel, mà là món quà được trao từ chị Ngọc Bích – bà quả phụ Phan Khôi. Và
món quà ấy là cháu Erika.
Chúng tôi rất đỗi vui mừng và cảm động khi được tin
cháu Erika – cô con gái út của Phan Khôi, bạn cùng trường bay, cùng khóa – dành
30 năm để tìm người Thầy, những người bạn của Bố đã một thời trai trẻ lên đường
chiến đấu cho Tự Do.
Cháu làm được điều này là do tình yêu rất nồng nàn,
mãnh liệt của chị đối với người chồng phi công của chị thì chị mới có khả năng
gây ấn tượng cho cháu Erika về hình ảnh đẹp, hào hùng về người Bố của con mình.
Đây là câu chuyện đặc biệt về giai thoại của một cô
nữ sinh trường Đạo từ xứ hoa Anh Đào Đà Lạt yêu chàng trai mây trời bay vào cõi
khác trong tuổi thanh xuân. Chàng đã lưu lại ba tác phẩm, cháu Erika là một
trong những tác phẩm tuyệt vời mà chúng tôi được biết.
Ngày 12 tháng Giêng tới đây, anh em chúng tôi sẽ có
dịp gặp lại những người Thầy cũ, những người đã dạy cho đàn chim từ những bước
chập chững đến lúc có thể tự mình tung mây lướt gió. Nếu không có chị và cháu
Erika thì chúng tôi sẽ không có dịp gặp lại những người Thầy năm xưa để bày tỏ
lòng biết ơn và niềm tự hào.
Phan Khôi đang hiện ra trước mắt chúng tôi, sống động,
hiền hòa và nụ cười bất hủ như ngày nào.
Bản thân tôi, tuy mang tín ngưỡng Phật Giáo, nhưng
cũng rất tin Đức Bác Ái của Đức Chúa Trời đã cho chúng tôi sống sót trong cuộc
chiến kinh hoàng để chiêm ngưỡng một tác phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa, của anh
chị Phan Khôi. Đó là cháu Erika.
Cháu là tấm gương sáng cho tất cả những người con Việt
Nam phải biết tìm cội nguồn của mình.
Tạ ơn Thiên Chúa,
Tạ ơn Chị Ngọc Bích – bà quả phụ Phan Khôi – và cháu
Erika.
Thân thương,
Bằng Phong Đặng văn Âu – một người bạn cùng khóa với
Phan Khôi.”
Vào ngày 12 tháng Giêng năm 2016, chúng tôi gồm: Lê
Phước Cung, Ngô Xuân Nhựt, Nguyễn Mộng Khôi và Đặng văn Âu sẽ gặp chị Ngọc Bích
từ Nebraska, cháu Erika đi công tác từ Brésil về và những người thầy dạy bay
vào năm 1962 sẽ gặp gỡ nhau tại San Diego.
Có thể tôi sẽ tường trình cuộc hội ngộ sau 53 năm rời
mái trường phi hành tại căn cứ Moody AFB.
Cám ơn chị Ngọc Bích,
Cám ơn Con Gái đã cho bố niềm tin yêu và niềm hy vọng
vào phép lạ ở tương lai.
Tôi tin rằng nếu tất cả người Việt Nam bất kể ý thức
hệ, bất kể chính kiến nếu kiên tâm đi tìm tổ tiên, nòi giống của mình như cháu
Erika đã đì tìm những người thầy, những người bạn của bố thì đất nước Việt Nam
sẽ là mảnh đất tuyệt vời cho dòng giống Lạc Hồng vẻ vang cùng thế giới.
Thầy Bill Mobly và cháu Erika “khoe” bức họa do Phan
Khôi vẽ tặng thầy Ruff Doyle năm 1963. Ảnh: Đặng Văn Âu
BẰNG
PHONG ĐẶNG VĂN ÂU
2-1-2015
No comments:
Post a Comment