Tuyên bố 9 điểm về tình hình Việt Nam hiện nay
Khối 8406
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Web: http://khoi8406vn.blogspot.com/
Email: vanphong8406@gmail.com
Việt Nam ngày 12 tháng 02 năm 2009
Kính gửi: Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
Đồng kính gửi: Cộng đồng thế giới dân chủ.
Sau khi bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam được công bố trên toàn thế giới vào ngày 8-4-2006, Khối 8406 (tên gọi theo ngày này) đã được thành lập như một tổ chức quần chúng đấu tranh gồm hàng chục ngàn người Việt Nam trong và ngoài nước, nhằm mục tiêu giành lại các quyền tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam bằng con đường hòa bình bất bạo động. Những quyền thiêng liêng này đã bị các thế hệ lãnh đạo trong đảng cộng sản Việt Nam ngang nhiên tước đoạt của dân tộc trong suốt hơn 63 năm qua (2/9/1945 – tháng 2/2009).
Trong năm 2008 vừa qua, tình hình quốc tế đã trải qua rất nhiều biến động, có ảnh hưởng lớn đến tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng,… của Việt Nam.
1) Về kinh tế:
+ Lạm phát gia tăng, sản xuất và dịch vụ đi xuống, đời sống của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam gặp khó khăn chồng chất. Nhiều người lao động bị mất việc làm và không còn thu nhập. Việt Nam lại chẳng có hệ thống an sinh xã hội để bảo đảm mức sống tối thiểu cho người thất nghiệp, cho những kẻ nghèo không nơi nương tựa. Họ đã và đang bị bần cùng hóa một cách thê thảm.
+ Tình trạng khốn khổ này không những xảy ra với dân thường mà còn với cả những người ngay chính, không chịu làm trái lương tâm trong hệ thống công quyền, kể cả trong lực lượng công an và quân đội. Tất cả họ - vốn chiếm đa số trong xã hội - đều thuộc tầng lớp bị trị mà quyền lợi đã và đang bị một thiểu số thống trị trong bộ máy cầm quyền ở Việt Nam hôm nay tham muốn nuốt trọn.
+ Những giải pháp chống lạm phát, chống suy thoái kinh tế do nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam (NCQ CSVN) đưa ra, tuy bước đầu đạt được vài kết quả nhất định. Thế nhưng xét về thực chất, đó chỉ là những kết quả nửa vời, thiếu căn bản, không giải quyết được tận gốc vấn đề. Các tệ trạng nhất định sẽ bùng phát trở lại ngay trong năm 2009 này. Bởi vì, nguyên nhân sâu xa của chúng là thể chế chính trị độc tài toàn trị vốn vẫn còn y nguyên.
+ Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong năm 2008 vừa qua cũng đã tác động xấu đến Việt Nam. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng: sự yếu kém toàn diện của bản thân nền kinh tế Việt Nam mới là nguyên nhân chính và đã tiềm ẩn trước khi khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra, bởi lẽ đó là sự pha trộn kỳ quặc giữa tính chất thị trường cạnh tranh với tính chất “xã hội chủ nghĩa”.
2) Về chính trị:
+ Thế kỷ 21 đã bắt đầu được hơn 8 năm với sự nở rộ của nền dân chủ trên toàn thế giới, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn còn phải chịu ách áp bức, bóc lột của một thể chế chính trị độc tài toàn trị, phi nhân bản, phản dân tộc và đi ngược lại các quy luật khách quan. Suốt hơn 63 năm qua, chế độ này luôn tập trung quyền lực vào tay một thiểu số lãnh đạo chính trị bất lương trong đảng cộng sản Việt Nam. Điều này đã triệt tiêu mọi khả năng cống hiến cho quốc gia dân tộc của rất nhiều con dân ưu tú, của những lực lượng chính trị tốt hảo, trong từng giai đoạn xây dựng và phát triển của đất nước. Chế độ này vẫn đang tiếp tục thực thi một chính sách khủng bố khốc liệt nhằm trói tay, bịt miệng tất cả những người Việt Nam yêu nước dám dũng cảm đứng lên đấu tranh giành lại các quyền tự do dân chủ. Nó không hề lấy sự ủng hộ của lòng dân để xây dựng và phát triển đất nước mà lại lấy bạo lực và lừa bịp làm phương tiện để tồn tại. Những biểu hiện ra bên ngoài của nó là nạn tham nhũng, lãng phí và hủy hoại môi trường rộng khắp; là cảnh áp bức, bất công, đói nghèo và tụt hậu đầy dẫy; là thói mua quan, bán chức nhan nhản, là sự giảm thiểu đạo đức xã hội và gia tăng đủ loại tội ác; là sự xâm phạm ngày càng nghiêm trọng đến an ninh cá nhân và xã hội, đến an ninh dân tộc và quốc gia (biên giới đất và biên giới biển).
Tóm lại, những hệ quả xấu xa và nguy hiểm của chế độ này chẳng những là sự tụt hậu về kinh tế mà còn là sự suy đồi về tất cả các mặt của đời sống đất nước như: đạo đức, giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, v.v… Tất cả đang đẩy dân tộc ta vốn có nền văn hiến hàng ngàn năm vào sự suy vong khó tránh khỏi. Điều này thật dễ hiểu, khi mà tập đoàn cầm quyền luôn đặt quyền lợi của họ lên trên quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Tập đoàn ấy, với Điều 4 của Hiến pháp hiện hành, đã tự quy định cho họ được độc quyền lãnh đạo đất nước vô thời hạn và không hề bị một cơ chế kiểm soát và giám sát nào. Vì vậy họ đã và đang ngày càng tác oai tác quái, đè đầu cưỡi cổ dân tộc. Điều này giải thích vì sao ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam hiện nay, từng phát biểu vào ngày 27-8-2007 rằng: “Dù ai có nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ điều 4 Hiến pháp thì cũng không có chuyện đó được. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát...”. Hậu qủa là: Trong xã hội Việt Nam nhiễu nhương và suy đồi hôm nay, những cái cần mất thì lại còn (do dã tâm muốn duy trì) và những cái cần còn thì lại mất (do dã tâm muốn loại bỏ) của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam!
Trước tình hình trên, Khối 8406 chúng tôi kêu gọi mọi người Việt Nam còn yêu nước thương nòi, không phân biệt già trẻ trai gái, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, hoàn cảnh xuất thân, giai tầng xã hội, địa điểm sinh sống, v.v… hãy cùng đoàn kết đứng lên đấu tranh để thay thế triệt để chế độ độc đảng, độc tài và phản dân tộc này bằng một chế độ dân chủ, đa nguyên đa đảng và pháp trị tiến bộ trong tương lai, bằng những việc làm cụ thể sau đây:
1) Tiếp tục vạch trần sự thối nát, mục ruỗng toàn diện của chế độ độc tài toàn trị hiện nay; vạch trần sự lũng đoạn bất lương của một thiểu số cầm quyền, đặc biệt là của 15 ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đương chức, đang hàng ngày hàng giờ tàn phá đất nước, dân tộc này!
2) Ủng hộ sáng kiến mở chiến dịch khiếu kiện trước Liên Hiệp Quốc về những vi phạm nhân quyền của NCQ CSVN. Đòi họ phải cho đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam 3 văn kiện quan trọng (xin xem phần phụ lục).
Đó là:
+ Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hiệp quốc (1948).
+ Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (1966).
+ Công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966).
Nội dung của 3 văn kiện đó chứa đựng những quyền tự do căn bản, mà mọi người trên khắp thế giới đều được hưởng. Nhà nước CHXHCNVN đã ký tất cả 3 văn kiện này vào năm 1982 để lừa mị thế giới tiến bộ, nhưng họ lại luôn cố tình vi phạm chúng ở Việt Nam. Thậm chí tuyệt đại đa số người dân trong nước cũng không hề biết là có chúng. Do đó, trên tinh thần tích cực và chủ động, Khối 8406 kêu gọi các thành viên của mình và mọi người Việt Nam yêu nước ở khắp nơi, bằng tất cả khả năng của mình, hãy chuyển tải được càng nhiều càng tốt 3 văn kiện trên đến với người dân Việt Nam trong nước (thành thị, nông thôn, trung du, sơn cước lẫn đồng bằng). Cần coi đây là một chiến dịch trọng điểm của năm 2009, gắn chặt nó với sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa nhằm giành lại tự do dân chủ cho Dân tộc!
3) Lên án các cuộc đàn áp, theo dõi, bắt bớ, đánh đập, khám nhà, gọi thẩm vấn, tịch thu tài sản, đuổi việc, xử phạt hành chính, giam tù,… của NCQ CSVN đối với những tiếng nói đấu tranh cho các quyền tự do dân chủ. Đòi họ phải thả các tù nhân chính trị, tù nhân tôn giáo; phải để cho những người đấu tranh dân chủ tự do gặp gỡ, hội họp với nhau và với các nhà hoạt động nhân quyền, lãnh đạo chính trị trên thế giới. Tiếp tục khẳng định và chủ động thực thi các quyền tự do căn bản của con người như: tự do tôn giáo tín ngưỡng, thông tin ngôn luận, lập hội lập đảng, biểu tình để đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi quyền tự quyết cho dân tộc,…
4) Lên án các cuộc đàn áp của NCQ CSVN đối với các cá nhân và tập thể dân sự lẫn tôn giáo đấu tranh đòi lại đất đai bị NCQ CSVN cướp đoạt trên khắp đất nước. Ca ngợi sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc đấu tranh này. Đồng thời, chủ động xây dựng một bản dự thảo Hiến pháp đa đảng, trong đó quyền tư hữu tài sản của công dân, đặc biệt quyền tư hữu về đất đai được tôn trọng và chế độ hộ khẩu bị dứt khoát bãi bỏ.
5) Lên án công hàm bán nước do ông Phạm Văn Đồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 và 2 Hiệp định ký trong 2 năm 1999 - 2000 giữa Việt Nam và Trung Quốc (về đất và biển). Đòi NCQ CSVN phải đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng 3 văn kiện này cùng những bản đồ và biên bản về các cột mốc biên giới hiện nay song song với Hiệp ước Thiên Tân Pháp - Thanh ký vào năm 1885, để nhân dân Việt Nam có cơ sở so sánh, xem dân tộc đã bị thiệt hại như thế nào. Đòi NCQ CSVN phải cảnh giác và phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử về các âm mưu xâm nhập gặm nhấm, cắm dân cài người của nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc ở các tỉnh biên giới phía Bắc, ở vùng Tây Nguyên và ở bất cứ vùng đất, vùng trời và vùng biển nào của Tổ quốc Việt Nam!
6) Tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ về mọi mặt của thế giới dân chủ. Đề nghị họ hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, an ninh, văn hóa, giáo dục v.v… với Việt Nam song song với việc yêu cầu và áp lực NCQ CSVN phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản của người dân.
7) Lên án cuộc thảm sát Thiên An Môn năm 1989 và những cuộc đàn áp gần đây của nhà cầm quyền Bắc Kinh đối với phong trào dân chủ và dân sinh ở Trung Quốc. Ủng hộ bản Hiến chương 08 (Linh bát Hiến Chương) của các nhà dân chủ nước này được công bố vào ngày 10-12-2008). Đồng thời, kêu gọi sự liên minh, liên kết của các lực lượng đấu tranh dân chủ trong lòng các chế độ độc tài còn sót lại trên thế giới như: Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Bắc Hàn.
8) Xây dựng và tăng cường sự đoàn kết đích thực trong nội bộ phong trào dân chủ, với nguyên tắc hợp nhất trong đa diện (nghĩa là chung mục tiêu xóa bỏ chế độ độc tài, xây dựng tự do dân chủ với những phương cách khác biệt). Đồng thời, đấu tranh mạnh mẽ và sáng suốt với âm mưu lũng đoạn thao túng, chia rẽ phá hoại của bộ máy công an cộng sản giữa lòng phong trào dân chủ.
9) Mời gọi Đồng bào Việt Nam ở ngoài nước khi có điều kiện hãy về sát cánh với đồng bào trong nước để cùng đấu tranh cho dân chủ. Xin Đồng bào đừng để mình bị Nghị quyết 36 của bộ chính trị đảng CSVN lừa gạt.
Việt Nam ngày 12 tháng 2 năm 2009.
Ban điều hành lâm thời Khối 8406.
1) Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Sài Gòn – Việt Nam.
2) Trung tá Trần Anh Kim – Thái Bình – Việt Nam.
3) Linh mục Phan Văn Lợi – Huế – Việt Nam.
4) Giáo sư Nguyễn Chính Kết (đang vận động dân chủ tại hải ngoại)
(trong sự hiệp thông của linh mục Nguyễn Văn Lý, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều chiến sĩ dân chủ khác, hiện còn đang bị giam cầm trong lao tù cộng sản.)
No comments:
Post a Comment