Tân
Tổng bí thư Tô Lâm sẽ tiếp tục di sản 'dở dang' của người tiền nhiệm thế nào?
(Phần một)
Bài bình luận của Huỳnh Trần
13-8-2024
Ông
Chủ tịch nước Tô Lâm được Đảng chọn làm Tổng bí thư bởi cương vị Bộ trưởng Công
an quyền lực đảm trách an ninh bảo vệ chế độ. Điều này đã được dự đoán trước
trong bối cảnh khủng hoảng kế vị. Người tiền nhiệm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
mặc dù tuổi cao sức yếu trong những năm tháng cuối đời nhưng vẫn không tìm được
người kế vị “xứng đáng.” Trong suốt cuộc đời hoạt động công tác Đảng cộng sản
Việt Nam, trong đó có hơn 13 năm (từ tháng1/2011 đến 7/2024) ở cương vị người đứng
đầu, ông đã nỗ lực thể hiện triết lý toàn trị vận hành dựa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hành “đảng trị” kết hợp với “đức
trị” với mong muốn xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.”
Tuy
nhiên, “giữa đường đứt gánh” – vì bạo bệnh ông Nguyễn Phú Trọng đã qua đời ngày
19/7/2024 ở tuổi 80. Không ai có thể sống mãi để cai trị theo ý mình, cố TBT Trọng
‘ra đi’ khi vẫn ấp ủ “còn nhiều việc phải làm”, trong đó có hai di sản nổi cộm
liên quan đến sự tồn vong chế độ. Đó là chống tham nhũng và bảo vệ tư tưởng đảng.
Nhiều người dân đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng với truyền thống văn hoá
trọng tình, đề cao lối sống cá nhân giản dị và nề nếp gia phong trong bối cảnh
tham nhũng tràn lan và xuống cấp đạo đức xã hội. Đồng thời, nhiều người dân
cũng băn khoăn liệu người kế vị ông Tô Lâm sẽ cai quản họ ra sao? Và, trước mắt
là tiếp tục những di sản của người tiền nhiệm thế nào?
Loạt
bài viết kỳ này lý giải bốn vấn đề chủ yếu sau: Một, vì sao khủng hoảng kế vị
luôn diễn ra dưới chế độ toàn trị; Hai, Tân Tổng bí thư Tô Lâm sẽ bảo vệ chế độ
“kiểu Putin”?; Ba, chống tham nhũng vẫn tiếp tục là công cụ lưỡng dụng: niềm
tin dân chúng và thanh trừng phe phái; Và, bốn, bảo vệ tư tưởng đảng trong bối
cảnh tăng trưởng nhờ thị trường để đảm bảo tính chính danh.
(I)
Khủng
hoảng kế vị - đặc tính của chế độ đảng toàn trị
Đối
với các chế độ tập quyền cao khủng hoảng kế vị là một “lời nguyền”, trong đó chế
độ chính trị hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo “tuyệt đối và toàn diện”,
thậm chí trong trường hợp vận hành triết lý đảng trị và đức trị này cũng không
là ngoại lệ, khủng hoảng kế vị là đặc tính chung, một hình thức biểu hiện tha
hoá quyền lực. Thời phong kiến Việt Nam sự kế vị theo huyết thống, cha truyền
con nối, vua “thế thiên hành đạo” và truyền ngôi cho con trai. Việc không có
con trai hay người kế vị không “anh minh” thường dẫn chế độ đến suy vong và, thậm
chí là sự kết thúc của triều đại đó. Lịch sử mười ba triều đại phong kiến Việt
Nam cho thấy điều này, hơn thế, những thời khắc kế vị luôn có ý nghĩa quan trọng
với sự hưng vong của chế độ.
Chế
độ Đảng CS toàn trị được duy trì không chỉ bởi một hệ thống chính trị phức tạp,
tinh vi, rộng khắp mà còn giữ tính tập quyền rất cao, chức vụ đứng đầu là tổng
bí thư đảng, thường có quyền “tuyệt đối” dưới ông ấy là một Ban bí thư với các
chức năng cai trị bao trùm các lĩnh vực với nòng cốt là Bộ Chính trị gồm dưới
hai mươi người, trong đó “ngũ trụ”: Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng chính
phủ, Chủ tịch quốc hội và Thường trực Ban bí thư – nhân vật vị trí quan trọng
thứ năm điều phối chương trình nghị sự và hoạt động của đảng. Kiểu tổ chức này
về cơ bản là mô hình Liên Xô cũ có “cải tiến” cho phù hợp với đặc thù. Lịch sử
tồn tại mô hình chính trị này chỉ ra sau sự cầm quyền suốt đời như J. Stalin
(1924 -1953) hay L. Brezhnev (1964-82) là sự sùng bái cá nhân, sự khủng hoảng kế
vị dẫn đến nguy cơ suy vong chế độ cộng sản.
Cải
tiến bước ngoặt là sau khi lãnh tụ ĐCS Trung Quốc, Mao Trạch Đông quan đời
1976. Là người kế vị, Đặng Tiểu Bình, được cho là “tổng kiến trúc sư” của “cải
cách và mở cửa”, đã thực hiện sự thay đổi mang tính cách mạng “thầm lặng”, thế
chế hoá chuyển giao quyền lực theo các nguyên tắc giới hạn tuổi và hai nhiệm kỳ
công tác không quá 10 năm ở một cương vị nhằm kiểm soát xu hướng tuyệt đối hoá
quyền lực đảng và sự sùng bái cá nhân lãnh tụ. Bản thân ông Đặng đã “gương mẫu”
thực hiện và, sau đó đã “buông rèm nhiếp chính” chỉ với cương vị “Chủ tịch Quân
uỷ Trung ương” (Lãnh tụ tối cao của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc). Sau Đặng
là ba thế hệ chuyển giao quyền lực khá “êm thấm”, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào,
Tập Cận Bình… Tuy nhiên, nguyên tắc nêu trên bị phá vỡ dưới thời Tập Cận Bình.
Từ khi lên nắm quyền tổng bí thư đảng từ năm 2012, lúc 60 tuổi, đến nay ông Tập
tiếp tục nhiệm kỳ thứ ba (2022 -2027). Hơn thế, ông ấy đã viết lại lịch sử và
thay đổi hiến pháp để có thể tại vị suốt đời. Những giới hạn quyền lực đảng đã
bị bãi bỏ, “cách mạng thầm lặng” do Đặng khởi xướng và thực thi, cũng như tư tưởng
thực dụng của ông ấy đã kết thúc?
Với
chế độ chính trị tương đồng, Việt Nam đi theo con đường trên từ khi Đổi mới
1986. Từ đó đến nay, mặc dù có “trục trặc” ở nhiệm kỳ nào đó, nhưng việc chuyển
giao quyền lực người đứng đầu Đảng CS VN đã được thực hiện qua năm thế hệ lãnh
đạo từ các cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, nguyên TBT
Nông Đức Mạnh và cố TBT Nguyễn Phú Trọng. Ông Trọng, nhân vật được chọn năm
2011 tại Đại hội 11của Đảng CS VN làm tổng bí thư dựa trên sự đồng thuận của
nhiều bên trong nội bộ đảng , đã vận dụng “trường hợp đặc biệt” để vượt
quy định của đảng để ở lại nhiệm kỳ thứ ba, nhưng chưa trọn… như đã nêu trên.
Theo
quan sát của giới phân tích chính trị, có sự khác biệt rõ rệt giữa hai Đảng CS
Trung Quốc và Việt Nam về người kế vị. Ở Trung Quốc khi Tổng bí thư ở nhiệm kỳ
công tác thứ hai thường phải “giới thiệu” với Đảng người kế vị. Việc quy hoạch
này là khá công khai và được thực hiện đúng cho đến thời Tập. Trái lại, ở Việt
Nam người kế vị luôn là “bất ngờ” không chỉ với dân mà với cả tất cả đảng viên
cộng sản và, chỉ được quyết định ở “phút 89” trong Đại hội đảng toàn quốc. Đặc
thù này cho thấy nhiều điều về quyền lực và kiểm soát quyền lực trong nội bộ đảng.
Nguyên tắc tập thể lãnh đạo luôn “tiềm ẩn” các phe phái, điển hình là sự tranh
giành ưu thế giữa hai phe “phe đảng” và “phe chính phủ” trong nhiệm kỳ
2011-2016, khi đó cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gặp thách thức, đến mức
“căng thẳng” trong Đại hội 12 năm 2016, để giữ quyền lực đảng trước nguyên Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng…
Như
đã biết, ông Dũng chịu về làm “người tử tế” khi đã có những dàn xếp nội bộ
trong bối cảnh cố TBT Nguyễn Phú Trọng không thực sự “làm chủ” mọi nhân sự của
Bộ Chính trị và Ban Chấp Hành Trung ương khoá 12. Bài học này đã thúc đẩy ông
Trọng quyết tâm theo đuổi và củng cố quyền lực tuyệt đối trong khoá 12. Một
trong những cách là làm trong sạch bộ máy nhà nước bằng cách loại trừ những đối
tượng “tự diễn biến, tự chuyển hoá” trong nội bộ và chống tham nhũng, tập trung
vào các quan chức chính phủ điều hành nền kinh tế, có “nhiều quyền và gần tiền”,
coi họ là nguồn cơn làm tổn hại sự thống nhất quyền lực đảng. (Xem phần III)
Cố
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có thâm niên cao nhất trong đảng về công tác
chuyên trách đảng, là nhà lý luận của Đảng, được đào tạo khoa học chính trị ở
Viện Khoa học Xã hội trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (AON), được nhắc
đến như “bậc thầy” về các quy tắc đảng[1], là người trong các
phát biểu ‘yêu thích’ trích dẫn câu nói của V. Lênin: ““Hãy cho chúng tôi một tổ
chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga lên”[2]…
Dù khi ở vị trí đứng đầu đảng, nhưng “chiếc nhẫn thần quyền”[3] cũng
không thể giúp ông ấy sống mãi để theo đuổi tham vọng của mình. Ông ấy đã “ra
đi” và để lại những “ước mơ” về một “đảng – nhà nước trong sạch vững mạnh”, về
xã hội chủ nghĩa…, những di sản và dấu ấn, trong đó nổi bật hai chủ đề chống
tham nhũng và tư tưởng đảng còn “dở dang”… Ngoài ra, do không “bồi dưỡng” được
người kế vị “như ý” liệu thế hệ kế tiếp sẽ tiếp tục kế thừa những di sản
của ông thế nào? Trước hết, hãy xem chân dung người kế vị là ai và như thế nào
trong bối cảnh duy trì chế độ đảng tập quyền.
(Còn
nữa)
----------------------------------------------------------------
*
Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do
Tham
khảo:
·
https://nghiencuuquocte.org/2021/03/10/con-duong-chinh-tri-cua-nguyen-phu-trong/;
·
https://en.wikipedia.org/wiki/Rings_of_Power.
*****
Tân
TBT Tô Lâm sẽ tiếp tục di sản 'dở dang' của người tiền nhiệm thế nào? (Phần
hai)
Bài bình luaận của Huỳnh Trần
13-8-2024
Tân
Tổng bí thư Tô Lâm sẽ duy trì chế độ “kiểu Putin”?
Không là
người kế vị chính thức nhưng một số động thái thể hiện ban đầu của Tân Tổng bí
thư Tô Lâm được quan sát với những sự kiện diễn ra đồng thời cho thấy ông ấy sẽ
nỗ lực “kiểu Putin” để bảo vệ chế độ toàn trị.
Ngày
20/6/2024 với tư cách Chủ tịch nước, ông Tô Lâm chủ trì lễ long trọng đón chính
thức Tổng thống LB Nga V. Putin thăm cấp Nhà nước tới Hà Nội theo lời mời của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng (lúc đó bệnh tình đã rất nặng). Tiếp theo, ngay
sau khi nhậm chức TBT đảng, ông Tô Lâm đã thể hiện quan điểm cầm quyền là phát
huy cao nhất tinh thần "tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc."[1] Nguyên
thủ quốc gia đầu tiên mà ông ấy điện đàm, được truyền thông trong và ngoài nước
đưa tin rộng rãi, là Tổng thống Putin, trong đó nhấn mạnh rằng hai nước có mối
quan hệ truyền thống hữu nghị và nay Nga có ‘tầm quan trọng chiến lược’ với Việt
Nam.[2]
Một cơ sở
quan trọng cho nhận định trên là hai nhân vật Tô Lâm và Putin lên nắm quyền tối
cao với xuất thân từ ngành an ninh. Một sự tương đồng thú vị có ảnh hưởng lớn
trong sự nghiệp cầm quyền của họ trong thời hiện tại và cung cấp cơ sở ngoại
suy trong tương lai. Lưu ý rằng, dưới chế độ toàn trị hay chuyên chế
(dictatorship) các lãnh tụ đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối nội và
đối ngoại. Hơn thế, hãy cùng xem xét một số sự kiện chủ yếu khi hai nhân vật
này trong bối cảnh những ngày đầu tiên kế vị.
*****
Tân
TBT Tô Lâm sẽ tiếp tục di sản 'dở dang' của người tiền nhiệm thế nào? (Phần ba)
Bài bình luận của blogger Huỳnh Trần
13-8-2024
Chống
tham nhũng “tới cùng” là tới khi nào?
Trong cuộc
họp báo sau khi được Hội nghị BCHTƯ Đảng bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm nhấn mạnh: "Chúng ta sẽ tiếp
tục công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không ngừng, không nghỉ, không
có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, với tinh thần xử lý một
vụ, cảnh tỉnh cả vùng"[1] và khẳng định, thời gian
tới, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ
được triển khai mạnh mẽ với phương châm, giải pháp như thời gian qua. Đảng khẳng
định chống tham nhũng “tới cùng” nhưng công luận băn khoăn “tới cùng” là tới
khi nào?
Di sản chống
tham nhũng của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có thể được khái quát:
Trước hết,
thừa nhận thực trạng tham nhũng là nghiêm trọng, mang tính hệ thống và tinh thần
“quyết tâm” chống tham nhũng. Giới lãnh đạo đảng thừa nhận rằng ‘tham nhũng quyền
lực là dạng tham nhũng phổ biến nhất, ở nhiều tầng nấc nhất’ và “quyết tâm”
dùng quyền lực đảng ở “đỉnh tháp” để chống tham nhũng quyền lực của hệ thống.
Những diễn ngôn thể hiện quyền lực “đao to búa lớn” của các lãnh đạo được thấy
trên ở nhiều nơi, trong các hội nghị đảng hay nghị trường quốc hội và được truyền
thông nhà nước đưa tin. Chẳng hạn, nhân Kỳ họp ngày 23/4/2018 Ủy ban Kiểm tra
Trung ương đã đề nghị Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật đối với bà Phan Thị
Mỹ Thanh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai, một tờ báo nhà nước
đã giật tít “Chống tham nhũng tới cùng”.[2] Tuy nhiên,
trong bài này không thể tìm thấy câu trả lời cho vấn đề chống tham nhũng “tới
cùng” là tới khi nào?
*****
Tân
TBT Tô Lâm sẽ tiếp tục di sản 'dở dang' của người tiền nhiệm thế nào? (Phần bốn)
Bài bình luận của blogger Huỳnh Trần
13-8-2024
Tân
Tổng bí thư Tô Lâm bảo vệ tư tưởng của Đảng thế nào?
Trong nỗ lực
cứu Đảng Cộng sản, cố TBT Nguyễn Phú Trọng đã nhân danh một chiến dịch chống
tham nhũng nhằm cố gắng thay đổi bản chất con người thay vì thay đổi hệ thống
chính trị đầy tham nhũng. Ngoài “đức trị” do ảnh hưởng của khổng giáo ông ấy
kiên định vận dụng tư tưởng Mác – Lênin, trong đó đề cao chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa chuyên chế, vào công tác lãnh đạo đảng, bỏ qua các quy tắc và chuẩn mực vốn
nhằm kiểm soát quyền lực, tái tập trung quyền lực đảng, lấn át phân quyền cho bộ
máy hành chính, thanh trừng các nhà kỹ trị, quan chức chính phủ “tự chuyển
hoá”, đàn áp giới bất đồng chính kiến, xoá sổ xã hội dân sự và thúc đẩy sự trỗi
dậy của ngành công an… Tất cả tạo nên hệ tư tưởng của đảng. Hệ tư tưởng đảng
cung cấp cơ sở để lý giải nguyên nhân vì sao Đại tướng công an Tô Lâm, dù không
phải là người kế vị chính thức, nhưng đã nhanh chóng và “suôn sẻ” thâu tóm quyền
lực để trở thành lãnh đạo “vô đối”, Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước, ngay sau
khi ông Trọng qua đời. Giờ đây, các nhà quan sát đang dõi theo ông Tô Lâm bảo vệ
tư tưởng của Đảng thế nào?
Trước hết,
về nguyên lý và thực tế chỉ ra, hệ tư tưởng Đảng CS Việt Nam là “bản sao”, rõ
nét nhất so với các nước dương ‘ngọn cờ XHCN’ như Cu Ba, Triều Tiên, Lào,
Venezuela…, là từ mô hình Đảng CS Trung Quốc. Về nguyên lý, cả hai đảng cầm quyền
tương đồng, về cơ bản, hệ thống chính trị dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin, chủ nghĩa xã hội, và có chút sự khác biệt là việc diễn giải nó trong bối
cảnh lịch sử hay điều kiện đặc thù của mỗi nước. Chẳng hạn, ở Trung Quốc
tư tưởng Mao Trạch Đông và ở Việt Nam tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung thêm
hay xã hội chủ nghĩa được xây dựng “mang bản sắc Trung Quốc” còn ở Việt Nam thì
“định hướng xã hội chủ nghĩa”… Sự tương đồng này được làm sâu sắc hơn từ đầu những
năm 2010 khi TBT Nguyễn Phú Trọng lên cầm quyền song hành với TBT Tập Cận Bình,
và có thể được nhận biết qua các hành động của mỗi đảng. Điển hình, ở bề nổi dễ
quan sát, như chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” ở Trung Quốc thì ở Việt Nam là chiến
dịch đốt lò và, ở phần chìm khó nhận biết hơn, như chủ trương, chính sách “an
ninh chế độ”[1] được thiết kế và thực thi…
No comments:
Post a Comment