220 năm quốc hiệu Việt
Nam và đôi điều thảo luận
https://nghiencuuquocte.org/2024/08/23/220-nam-quoc-hieu-viet-nam-va-doi-dieu-thao-luan/
Tóm
tắt: Năm
1804, vua Gia Long, người sáng lập ra vương triều Nguyễn, triều đại quân chủ cuối
cùng của Việt Nam đã chọn hai chữ 越南 (Việt Nam) làm quốc
hiệu. Tuy nhiên, trong thư tịch cổ Hán – Nôm của Việt Nam có nhiều tư liệu, văn
bia, di vật ghi nhận hai chữ Việt Nam đã xuất hiện từ thế kỷ XIV và được sử dụng
để chỉ lãnh thổ, cương vực của đất nước ta. Bài viết này dùng các nguồn sử liệu
của triều Nguyễn (Việt Nam) và của nhà Thanh (Trung Hoa) để lý giải việc hai chữ
越南được
chọn làm quốc hiệu vào năm 1804, đồng thời, dẫn ra những nguồn tư liệu Hán Nôm
khác trong thư tịch cổ Việt Nam để giải thích vì sao hai chữ 越南đã xuất hiện từ trước
năm 1804, và chúng được sử dụng với mục đích gì? Bài viết này cũng đặt ra giả
thuyết việc chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725) sử dụng hai chữ 越南trong các thi phẩm do
ông sáng tác hàm ý điều gì?
*
Đặt
vấn đề
Sau
khi đánh bại nhà Tây Sơn (1771 – 1802), năm 1802, Nguyễn Ánh, hậu duệ của các
chúa Nguyễn từng cai trị đất Đàng Trong trong 217 năm (1558 – 1775), lên ngôi
vua, lập nên triều Nguyễn. Nhà vua chọn Phú Xuân [Huế] làm kinh đô, lấy niên hiệu
là Gia Long (嘉隆).
Tháng
Một năm Nhâm Tuất (tháng 12.1802), vua Gia Long sai Lê Quang Định dẫn đầu một sứ
bộ sang Trung Hoa cầu phong cho vua Gia Long và xin đổi quốc hiệu nước ta
thành Nam Việt (南越).
Trước
đó, vào tháng Năm năm Tân dậu (tháng 6.1801), sau khi thu phục Phú Xuân và tiến
quân ra Bắc truy đuổi tàn quân Tây Sơn của Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản, Nguyễn
Ánh đã gửi thư sang Trung Hoa để tìm cách giao thiệp với Thanh triều và xin nhà
Thanh công nhận ông là quốc vương của một triều đại mới, thay thế cho triều Tây
Sơn vừa cáo chung. Trong thư gửi Thanh triều, ông tự xưng là Nam Việt
quốc vương (南越國王).
Nhà
Thanh đã công nhận triều Nguyễn, chấp thuận niên hiệu của vị vua khai lập triều
Nguyễn là Gia Long. Tuy nhiên, vua Gia Khánh nhà Thanh không công
nhận quốc hiệu nước ta là Nam Việt (南越) như yêu cầu của vua
Gia Long viết trong quốc thư gửi cho nhà Thanh, mà đổi quốc hiệu nước ta
thành Việt Nam (越南).
Tháng
Giêng năm Gia Long thứ 3 (tháng 2.1804), vua Gia Khánh sai sứ thần là Tề Bố Sâm
mang cáo sắc và quốc ấn sang Thăng Long tuyên phong cho vua Gia Long là Việt
Nam quốc vương (越南國王). Tháng Hai năm Giáp tí (tháng 3.1804), vua
Gia Long làm lễ cáo yết tại Thái Miếu ở kinh đô Huế, tuyên đặt quốc hiệu
là Việt Nam (越南).
Như
vậy, đến tháng 3.2024, quốc hiệu Việt Nam của nước ta tròn 220
năm tuổi. Tuy nhiên, danh xưng Việt Nam (越南) đã xuất hiện trong
nhiều thư tịch cổ của nước ta từ nhiều thế kỷ, trước khi chính thức trở thành
quốc hiệu nước ta vào năm 1804.
Bài
viết này thảo luận vấn đề: Việt Nam trở thành quốc hiệu nước
ta từ năm 1804, vậy danh xưng Việt Nam xuất hiện trong những
thư tịch cổ ở nước ta từ nhiều thế kỷ trước hàm ý gì?
Việt
Nam chính thức trở thành quốc hiệu nước ta vào năm 1804
Thiết
lập liên lạc với nhà Thanh
Ngay
sau khi chiếm được Phú Xuân vào tháng Năm năm Tân dậu (tháng 6.1801), Nguyễn
Ánh đã tìm cách liên lạc với nhà Thanh. Tháng Bảy cùng năm (tháng 8.1801), Nguyễn
Ánh sai Triệu Đại Nhậm, một thương nhân người Hoa bị cướp biển bắt trong vùng
biển nước ta, được quân Nguyễn giải thoát, mang thư của Nguyễn vương sang Quảng
Đông gặp Giác La Cát Khánh, bấy giờ là Tổng đốc Lưỡng Quảng, thông báo với ông
ta là quân Nguyễn đã chiếm được Phú Xuân từ tay nhà Tây Sơn, và đề nghị thiết lập
quan hệ.
Đại
Nam thực lục chép:
“[Nguyễn Ánh] sai Triệu Đại Sĩ[1] đến Quảng
Đông. Đại Sĩ là người Thanh sang buôn bán bị hải phỉ Tề Nguy bắt giữ. Quân
ta tấn công hải phỉ nhân đó bắt được. Vua [Nguyễn Ánh] thấy
kinh đô cũ đã khôi phục được rồi, bàn luận muốn đem tình hình gửi thư báo cho Tổng
đốc Lưỡng Quảng. Đại Sĩ xin nhận vì thế mới sai đi”.[2]
Tháng
Tám năm Tân Dậu (tháng 9.1801), Tổng đốc Lưỡng Quảng Giác La Cát
Khánh đã tâu lên vua Gia Khánh rằng quân An Nam (tức quân Tây Sơn) và
quân Nông Nại (tức quân Nguyễn Ánh) giao binh, và quân An Nam đã để mất
kinh đô Phú Xuân vào tay quân Nông Nại.
Do
chưa rõ nội tình nước ta lúc đó đang diễn biến như thế nào, nên nhà Thanh chỉ hạ
lệnh cho các địa phương giáp giới nước ta phòng bị cẩn mật,[3] chưa thiết lập liên lạc với Nông Nại,
do bấy giờ Thanh triều vẫn giữ quan hệ với triều đình Tây Sơn, và Nguyễn Quang
Toản vẫn là An Nam quốc vương (安南國王) do nhà Thanh tuyên
phong từ trước.
Chính
thức cầu phong và xin đổi quốc hiệu
Tháng
Năm năm Nhâm tuất (tháng 6.1802), Nguyễn Ánh lên ngôi ở Phú Xuân, lấy niên hiệu
là Gia Long (嘉隆). Tháng Bảy cùng năm (tháng 8.1802),
vua Gia Long sai Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Hoàng Ngọc Uẩn mang biểu trần
tình và sắc ấn của nhà Thanh phong cho Tây Sơn mà nhà Nguyễn đã tịch thu được,
cùng ba đầu lãnh cướp biển người Hoa là Mạc Quan Phù, Lương Văn Canh và Phàn
Văn Tài sang giao nộp cho Thanh triều.
Đại
Nam thực lục chép:
“… Vua [Gia Long] cùng quần thần bàn về việc gửi sứ thần
sang thông hiếu với nhà Thanh. Dụ rằng: Nước ta tuy cũ nhưng đã chịu mệnh đổi mới,
đại nghĩa phục thù người Thanh chưa tỏ tường. Trước đây quân thủy của ta bị
bão, người Thanh ban cho hậu hĩ trả về, ta chưa báo đáp. Nay ta lấy được sách ấn
của ngụy Tây do nhà Thanh phong cho, lại bắt được hải phỉ là giặc cướp người
Thanh bỏ trốn, vậy nên cho người đưa trả trước mà cũng luôn thể cho họ biết việc
đánh ra bắc, đợi khi Bắc Hà định được rồi khi ấy sẽ tính chuyện bang giao thì
việc sẽ ổn thỏa hơn. Các khanh hãy chọn người có thể đi sứ được. Quần thần chọn
lấy Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Hoàng Ngọc Uẩn. Vua bằng lòng, lấy Trịnh
Hoài Đức làm Thượng thư bộ Hộ, sung chức chánh sứ sang Thanh, Ngô Nhân Tĩnh làm
Hữu tham tri bộ Binh, Hoàng Ngọc Uẩn làm Hữu tham tri bộ Hình làm phó sứ, mang
quốc thư, phẩm vật cùng sách ấn người Thanh ban cho ngụy Tây, cùng với bọn hải
phỉ Tề Nguy là Mạc Quan Phù, Lương Văn Canh, Phàn Văn Tài đi hai
chiếc thuyền Bạch Yến, Huyền Hạc vượt biển theo cửa Hổ Môn, tỉnh Quảng Đông đệ
lên. Tổng đốc Giác La Cát Khánh đem việc chuyển đạt”.[4]
Như
vậy, sứ bộ do Trịnh Hoài Đức dẫn đầu sang Trung Hoa vào tháng 8.1802 có nhiệm vụ
tìm hiểu và thăm dò về việc thiết lập quan hệ giữa triều Nguyễn với nhà Thanh,
chuẩn bị cho việc cầu phong và xin đổi quốc hiệu sẽ được tiến hành ngay sau đó.
Tiếp
đến, tháng Một năm Nhâm tuất (tháng 12.1802), vua Gia Long sai Lê Quang Định
làm chánh sứ, dẫn đầu sứ bộ mang theo tờ biểu cầu phong đi đường bộ qua ải Nam
Quan sang Trung Hoa để xin hoàng đế nhà Thanh phong vương cho vua và xin đổi quốc
hiệu nước ta.
Đại
Nam thực lục chép:
“… Lấy Binh bộ tham tri Lê Quang Định làm Binh bộ thượng thư, làm chánh
sứ sang nhà Thanh, Lại bộ kiêm sự Lê Chính Lộ, Đông Các học sĩ Nguyễn Gia Cát
làm giáp ất phó sứ. Trước đây khi vua đã lấy được Bắc thành rồi đã gửi thư
cho Tổng đốc Lưỡng Quảng, đốc thần đã đem việc đó chuyển đạt lên, vua Thanh ra
lệnh viết thư trả lời nói rằng nước ta đã lấy được toàn cõi An Nam vậy hãy soạn
biểu xin phong. Lần trước sứ bộ Trịnh Hoài Đức được lệnh di chuyển sang Quảng
Tây đợi khi sứ bộ thỉnh phong đến nơi thì cùng đi lên Yên Kinh đợi lệnh. Bọn
Chính Lộ cũng đã nghe tin ấy. Vua ra lệnh cho bọn Quang Định mang quốc thư và
phẩm vật (2 cân kỳ nam, 2 đôi ngà voi, 4 đôi sừng tê, 100 cân trầm
hương, 200 cân tốc hương, trừu, sa, quyên, bố mỗi thứ 200 tấm) sang
thỉnh phong, lại xin đổi quốc hiệu làm Nam Việt (南越). Ra lệnh cho Bắc
thành tu sửa kiến tạo hành cung, sứ quán”.[5]
Trong
tờ biểu cầu phong do Lê Quang Định trình lên vua nhà Thanh, khi thấy vua Nguyễn
dùng niên hiệu Gia Long (嘉隆), vua Gia Khánh đặt
câu hỏi: phải chăng niên hiệu của quốc trưởng ở phương Nam tỏ ý bao trùm niên
hiệu của hai hoàng đế nhà Thanh là Càn Long (乾隆) và Gia
Khánh (嘉慶)?
Sứ
thần nước ta đã vội vàng cải chính rằng: đó chỉ là gộp hai tên Gia Định (嘉定) và Thăng
Long (昇隆), để thể hiện đất nước đã được thống nhất,
trải từ Gia Định đến Thăng Long. Mặc dù cái
tên Thăng Long, là kinh đô của Đại Việt từ thế kỷ X đến lúc đó, là 昇龍, được viết với chữ Long (龍) nghĩa là “rồng”,
không phải Long (隆), nghĩa là “hưng thịnh”,
như chữ Long (隆) trong niên hiệu Càn Long.
Sự
kiện trên cùng với việc vua Gia Long tự xưng là Nam Việt quốc vương (trong
trần tình biểu gửi Thanh triều), đã khiến triều đình nhà Thanh có những quan ngại:
Tờ
dụ của vua Gia Khánh, ngày 20 tháng Chạp năm Gia Khánh thứ 7 (1802), gửi Tuần
phủ Quảng Tây Tôn Ngọc Đình, có đoạn chép: “… Hôm trước theo lời tâu của
Tôn Ngọc Đình tiến biểu thỉnh phong của Nguyễn Phúc Ánh, trẫm đã giáng dụ chỉ
ra lệnh cho tuần phủ gửi lên tính toán xem cống sứ ngày nào có thể lên đến kinh
đô để tâu lên trước. Nay trẫm đã xem kỹ biểu văn của Nguyễn Phúc Ánh gửi lên có
xin hai chữ Nam Việt (南越) để tích
phong, việc ấy thì không thể được. Cái tên Nam Việt bao trùm rất
rộng, khảo sử trước đây thì hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây cũng nằm trong đó.
Nguyễn Phúc Ánh chỉ là một tiểu di ở ngoài biên kiếu, lúc này có toàn cõi An
Nam, chẳng qua cũng chỉ là đất Giao Chỉ cũ, sao lại dám gọi là Nam Việt biết
đâu chẳng phải Nguyễn Phúc Ánh muốn khoa trương. Ngoại di muốn xin đổi quốc hiệu,
trước là dò ý, hay là quốc trưởng kia có những kẻ ở bên cạnh dẫn dắt ý xấu cũng
không biết được. Như vậy cần nên bác đi, nên trẫm đã ra lệnh cho Quân Cơ Xứ soạn
một đạo hịch dụ và đem hai tờ nguyên biểu giao lại cho tuần phủ Tôn Ngọc Đình
nhận rồi cứ chiếu theo hịch dụ đó chép lại để dụ xem Nguyễn Phúc Ánh trả lời thế
nào? Nếu như Nguyễn Phúc Ánh nhận rằng mình sai, cung kính tạ lỗi, hoặc sau có
biểu văn thì viên tuần phủ một mặt tâu lên, một mặt cùng với cống sứ đem biểu
thỉnh phong lên kinh, trẫm sẽ gia ân phong cho làm An Nam quốc
vương (安南國王), cùng thêm quà thưởng đem về như thế
Nguyễn Phúc Ánh cũng toại được lòng mong muốn. Nếu như sau đó có biểu
bẩm lên thì tuần phủ cứ thực mà trình bày còn sứ thần lúc trước gửi sang và
nguyên biểu cống thì giữ lại Việt Tây,[6] đợi trẫm giáng chỉ biện lý. Còn
việc Nguyễn Phúc Ánh cầu phong tên nước Nam Việt hiển nhiên có
ý khoe võ công đem lòng đòi hỏi, e rằng trong lòng có chỗ không thể lường được,
ý muốn lấy cả hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. Vậy hãy mật sức cho các quan địa
phương văn võ một dải biên quan, hải đạo lưu tâm phòng bị, không được mảy may
bê trễ, đó là quan trọng hơn cả”.[7]
Trong
tờ dụ các quân cơ đại thần ngày 6 tháng Tư năm Gia Khánh thứ 8 (26.5.1803), vua
Gia Khánh dụ rằng: “Việc [vua Gia Long] xin đặt tên nước
là Nam Việt (南越), thì nước này
trước đây có đất cũ Việt Thường, sau lại được toàn lãnh thổ An
Nam; vậy thiên triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ Việt Nam (越南); lấy chữ Việt (越) để đằng trước
tượng trưng cương vực thời xưa; dùng chữ Nam (南) để đằng
sau, biểu tượng đất mới được phong; lại còn có nghĩa là phía nam của Bách Việt;
không lẫn lộn với tên nước cũ Nam Việt. Một khi tên nước đã chính,
nghĩa của chữ cũng tốt lành; vĩnh viễn thừa hưởng ân trạch của thiên triều”.[8]
Việc
vua Gia Khánh của nhà Thanh chấp thuận phong vương cho vua Gia Long và đồng ý
cho nước ta đổi quốc hiệu, được Đại Nam thực lục chép như sau:
“Năm Giáp tí, Gia Long thứ 3 (1804), tháng Giêng mùa xuân.
Vua trú tất ở hành cung thành Thăng Long. Sứ thần nhà Thanh là Án sát Quảng Tây
Tề Bố Sâm đến Nam Quan… Thanh đế lúc đầu thấy cái tên Nam Việt (南越) so với Đông
Tây Việt[9] hình
chữ tương tự nên không muốn chấp thuận. Vua [Gia Long] nhiều lần
gửi thư phân tích, lại nói rằng nếu không chấp thuận sẽ không thụ phong. Thanh
đế sợ phật ý nước ta, nên đặt tên là Việt Nam (越南), viết thư nói rằng:
Trước đây vốn đã có đất Việt Thường (越裳) nên tự xưng
là Nam Việt (南越). Nay lại có toàn
cõi An Nam (安南), tên cần phải
theo thực nên cần phải đem cả cương thổ trước sau gộp lại, lúc mở đầu ban cho
cái tên đó để tỏ sự tốt lành. Vì thế nên định là chữ Việt (越) để lên trước,
biểu thị nước ta kế thừa đất xưa mà hưởng tiếng tốt cũ, còn chữ Nam (南) để xuống
sau, biểu tượng việc nước ta mở rộng xuống cõi nam mà được tích mệnh mới. Tên
như thế chính đại, chữ lại tốt lành, so với tên cũ đất Lưỡng Việt của nội địa
có chỗ phân biệt. Đến đây, vua Thanh sai [Tề] Bố Sâm mang cáo
sắc và quốc ấn sang tuyên phong, lại ban cho thải đoạn, khí mãnh các loại phẩm
vật”.[10]
https://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2024/08/1-1024x505.jpg
Con dấu Việt
Nam Quốc Vương Chi Ấn (Nhà Thanh ban cho Vua Gia Long)
Vậy là, quốc
hiệu Việt Nam (越南)
ra đời trong một bối cảnh lịch sử rất đặc biệt. Đến tháng Hai năm Giáp tí
(tháng 3.1804), Việt Nam chính thức trở thành quốc hiệu của nước
ta.
Về
sự kiện này, Đại Nam thực lục chép: “Tháng Hai [năm
Giáp tí (1804)], ngày Mậu thìn, [vua Gia Long] xa giá
đến kinh sư. Ngày Quý dậu, vua yết ở Thái Miếu… đặt quốc hiệu
là Việt Nam (Việt Nam) Ngày Đinh sửu đem việc cáo
Thái Miếu. Lễ xong vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo ở trong
ngoài”.[11]
Tờ
chiếu tuyên đặt quốc hiệu Việt Nam do vua Gia Long ban hành, có đoạn viết: “Đế
vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng
tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt
Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước.
Hơn 200 năm nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận
trong ngoài yên lặng, chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ,
lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao
Nam đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu
mệnh mới nên định lấy ngày 17 tháng Hai năm nay (1804) kính
cáo Thái Miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn,
truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ
báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không
được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”.[12]
Như
vậy, đến năm 2024 này, quốc hiệu Việt Nam đã tròn 220 năm.
Danh
xưng Việt Nam trong thư tịch cổ và vấn đề cần thảo luận
Danh
xưng Việt Nam trong thư tịch cổ
Như
vậy, Việt Nam (越南) chính thức trở
thành quốc hiệu của nước ta từ năm 1804 và được duy trì cho đến ngày nay (trong
đó có 107 năm quốc hiệu được đổi thành Đại Nam, từ năm 1838 đến năm 1945).
Tuy
nhiên, nhiều nhà nghiên cứu Lịch sử và Hán Nôm đã công bố nhiều thư tịch cổ cho
thấy hai chữ 越南đã xuất hiện trong tư liệu, bi ký, minh văn
trên cổ vật… ở nước ta sớm hơn rất nhiều so với thời điểm 1804. Từ đó, cũng có
ý kiến cho rằng hai chữ 越南là danh xưng, hoặc được dùng để chỉ cương vực
nước ta, trước khi chính thức trở thành quốc hiệu vào đầu thời Nguyễn. Chẳng hạn:
–
Trong biên khảo Lược truyện các tác gia Việt Nam của nhà thư tịch
học Trần Văn Giáp (1898 – 1973) có liệt kê tác phẩm Việt Nam thế
chí (越南世志) do Hồ Tông Thốc, tiến sĩ triều Trần Nghệ
Tông (1320 – 1373), biên soạn.[13] Hồ Tông Thốc cũng là người soạn Văn
bia chùa Từ Ân vào năm 1382, thì có thể đoán định tác phẩm Việt
Nam thế chí cũng ra đời vào thập niên 80 của thế kỷ XIV.[14] Theo Trần Văn Giáp, đây là thư tịch
sớm nhất ở nước ta xuất hiện hai chữ Việt Nam (越南).
–
Năm 1470, trên đường đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497) cùng quan binh, đã dừng thuyền trong vụng biển dưới chân núi Hải
Vân (nay là ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng). Nhà vua
đã làm bài thơ Hải Vân hải môn lữ thứ (海雲海門旅次), trong đó có hai chữ
越南.
Nguyên
văn bài thơ:
海雲海門旅次
混一書車共幅絹
海雲横界越南天
三更夜靜銅龍月
五鼓風清路鶴船
夷落奉琛期款塞
閫臣愛國巧籌邊
此身那得生還幸
敢望班超到酒泉
Phiên
âm:
Hải
Vân hải môn lữ thứ
Hỗn
nhất thư xa cộng bức quyên
Hải
Vân hoành giới Việt Nam thiên
Tam
canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt
Ngũ
cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền
Di
lạc phụng thâm kỳ khoản tái
Khổn
thần ái quốc xảo trù biên
Thử
thân na đắc sinh hoàn hạnh
Cảm
vọng Ban Siêu đảo Tửu Tuyền
Nguyễn
Minh Tường dịch nghĩa:
Nghĩ
lại ở cửa biển Hải Vân
Gộp
một mối thư xa về một bức dư đồ
Hải
Vân vạch ngang ranh giới vùng trời Việt Nam
Canh
ba đêm vắng, mảnh trăng Đồng Long vằng vặc
Trống
canh năm gió mát, con thuyền Lộ Hạc dập dềnh
Người
Di vâng mệnh hẹn kỳ hạn nộp đất biên tái
Vị
khổn thần yêu nước khéo trù liệu việc biên cương
Tấm
thân này đâu phải lấy việc sống sót là may
[Nếu
vậy] đâu dám tới Tửu Tuyền nhìn mặt Ban Siêu nữa.[15]
–
Bia Trùng tu Bảo Lâm tự bi ký (乘修寶林寺碑: Văn bia trùng tu
chùa Bảo Lâm), dựng ở chùa Bảo Lâm (nay thuộc xã Trâu Bộ, huyện Kinh Môn, tỉnh
Hải Dương). Văn bia do vị Đông Các hiệu thư, họ Ngô (không rõ tên), làm quan dưới
triều Mạc Phúc Nguyên (1546 – 1564), biên soạn vào năm Quảng Bảo thứ 5 (1559).
Mở đầu bài văn bia là câu: 越南大名藍不知其幾. 必待聖慈福善時修葺者… (Việt Nam đại
danh lam bất tri kỳ kỷ. Tất đãi thánh từ phúc thiện thời tu tập giả…: Đại
danh lam nước Việt Nam không biết bao nhiêu mà kể. Việc tu sửa hẳn phải đợi lúc
có bậc thánh hiền, phúc thiện).[16]
–
Trong bài thơ Quy lão ký Lại bộ Thương thư Tô Khê Bá (歸老寄吏部尚書蘇溪伯: Nhân tuổi già về
nghỉ, gửi quan Thượng thư bộ Lại Tô Khê Bá) của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm,
viết vào khoảng cuối năm 1577, có câu: 壽星共仰光芒在. 前後相將照越南 (Thọ tinh cộng
ngưỡng quang mang tại. Tiền hậu tương tương chiếu Việt Nam:
Cùng ngắm trông sao Thọ chiếu sáng. Trước hay sau cũng đều chiếu rọi khắp Việt
Nam).[17]
–
Bia Cam Lộ tự bi (甘露寺碑: Bia chùa Cam Lộ), dựng
năm Hưng Trị thứ 3 (1590) tại chùa Cam Lộ (nay thuộc xã Đào Xá, huyện Phú
Xuyên, thành phố Hà Nội). Văn bia do Dương Chuân, Giám sinh Quốc tử giám Thăng
Long, biên soạn năm Hưng Trị thứ 2 (1589), triều Mạc Mậu Hợp (1564 – 1592),
trong đó có hai chữ 越南 ở trong câu: 甘露寺, 名藍近水, 樓臺, 先得月, 瓊世界之三千, 向陽花草易為春, 直越南之第一 (Cảm Lộ tự, danh
lam cận thủy, lâu đài, tiên đắc nguyệt, quỳnh thế giới chi tam thiên, hướng
dương hoa thảo dị vi xuân. Chân Việt Nam chi đệ nhất: Chùa Cam Lộ là
một ngôi chùa nổi tiếng. Chùa gần với hồ nước, lâu đài, được hưởng ánh trăng
trước, vẻ đẹp như ngọc quỳnh trong cõi ba nghìn thế giới. Chùa hướng về phía mặt
trời nên hoa cỏ trong chùa sớm tươi tốt tựa tiết xuân. Thật là cảnh đệ nhất của
nước Việt Nam vậy).[18]
–
Bia Trùng tu Đại Bi tự (重修大悲寺: Trùng tu chùa Đại
Bi), dựng ở chùa Đại Bi (tức chùa Kim Liên ở phường Quảng An, quận Tây Hồ,
thành phố Hà Nội). Văn bia do Tiến sĩ Ngô Nhân Triệt biên soạn vào năm Dương
Hòa thứ 5 (1639) đời Lê Thần Tông (1607 – 1662). Đoạn đầu bài văn bia có câu: 真越南, 第一也 (Chân Việt Nam,
đệ nhất dã: Thật là một danh thắng bậc nhất Việt Nam).[19]
–
Bia Vân La tự bi (雲羅寺碑: Bia chùa Vân La), dựng
ở chùa Vân La (nay thuộc xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh). Văn
bia do Tiến sĩ Dương Cảo, biên soạn vào năm Thịnh Đức thứ 3 (1655), đời Lê Thần
Tông (1607 – 1662). Cuối văn bia có bài minh, gồm 42 câu. Trong đó, câu thứ 3
có ghi hai chữ越南: 越南之貴, 京北承宣 (Việt Nam
chỉ quý. Kinh Bắc thừa tuyên: Ấy quý Việt Nam. Thừa tuyên Kinh Bắc).[20]
–
Bia Thể tồn bi ký (体存碑記: Bia gìn giữ bảo tồn
truyền thống gia tộc), dựng ở đình Thủy Môn (nay thuộc thị trấn Đồng Đăng, huyện
Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn). Văn bia này thường được ghi là Thủy Môn đình
bi ký (水門亭碑記: Văn bia đình Thủy Môn), không rõ tác giả
biên soạn. Tuy nhiên, lạc khoản khắc trên bia ghi niên thứ là Cảnh Trị
bát niên (năm Cảnh Trị thứ 8) cho biết bia được soạn vào năm 1670, dưới
triều Lê Huyền Tông (1663 – 1671). Cuối văn bia có bài minh viết theo thể
thơ tứ ngôn, gồm 30 câu. Trong câu đầu có hai chữ 越南: 越南喉舌. 鎮北隘關. 石壁寰宇… (Việt Nam
hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan. Thạch bích hoàn vũ…: Yết hầu Việt Nam. Ai quan
trấn Bắc. Vách đá lớp lớp…).[21]
https://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2024/08/2-1024x521.jpg
Bia
‘Thủy Môn đình bi ký’
–
Đặc biệt, hai chữ 越南 đã xuất hiện trên những món đồ sứ ký kiểu,
có niên đại vào thế kỷ XVIII. Đó là những món đồ sứ đề các bài thơ chữ Hán do
chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725) trước tác, vịnh các thắng cảnh ở vùng đất
Thuận – Quảng. Sau đó ông ký kiểu đồ sứ ở Trung Hoa, cho thợ gốm viết các bài
thơ này lên những món đồ sứ và vẽ tranh minh họa nội dung của những bài thơ
này.
+
Bài thơ thứ nhất của chúa Nguyễn Phúc Chu có hai chữ 越南 là bài Hà
Trung yên vũ (河中烟雨), viết trên chiếc tô sứ ký kiểu, vẽ cảnh đầm
Hà Trung ở phía đông nam kinh đô Huế,[22] niên đại vào thế kỷ XVIII.[23]
https://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2024/08/3-1024x424.jpg
Tô
sứ ký kiểu vẽ phong cảnh dầm Hà Triung
Nguyên
văn bài thơ:
河中烟雨
海氣山風颯颯驚
漸看烟湿散天清
漁燈幾点知江岸
旅客洛宵听雨声
禅誦不聞幽磬韻
鄉思难尺故人情
越南亦有瀟湘景
欲倩丹青寫未成
道人書
Phiên
âm:
Hải
khí sơn phong táp táp kinh
Tiệm
khan yên thấp tán thiên thanh
Ngư
đăng kỷ điểm tri giang ngạn
Lữ
khách lạc tiêu thính vũ thanh
Thiền
tụng bất văn u khánh vận
Hương
tư nan xích cổ nhân tình
Việt
Nam
diệc hữu Tiêu Tương cảnh
Dục
thiến đan thanh tả vị thành
Đạo
nhân thư
Trần
Đình Sơn dịch thơ:
Mưa
bụi ở đầm Hà Trung
Sóng
trào gió rét nghĩ mà kinh
Mù
tỏa dần tan mây trắng xanh
Bến
cũ đèn chài thấp thoáng điểm
Mưa
buồn lữ khách lắng thâu canh
Phật
kinh không vẳng dư âm khánh
Quê
cũ ai hay nỗi nhớ mình
Việt
Nam cũng có Tiêu Tương cảnh
Muốn
vẽ mà sao vẽ chẳng thành
Đạo
nhân viết
+
Bài thơ thứ hai của chúa Nguyễn Phúc Chu, có hai chữ 越南 là bài Ải
Lĩnh xuân vân (隘嶺春雲), viết trên nhiều tô sứ ký kiểu, vẽ cảnh Ải
Lĩnh[24] ở phía nam kinh đô Huế, niên đại
vào thế kỷ XVIII.[25]
https://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2024/08/4-1024x465.jpg
Tô
sứ vẽ phong cảnh Ái Lĩnh
Nguyên
văn bài thơ:
隘嶺春雲
越南衝要此山巔
絕嶺还如蜀道偏
但見雲橫三峻嶺
不知人在幾重天
冷沾鬚髮非同雪
濕濺衣裳豈是泉
惟願海風吹作雨
正宜千里潤桑田
道人書
Phiên
âm:
Ải
Lĩnh xuân vân
Việt
Nam
xung yếu thử sơn điên
Tuyệt
lĩnh hoàn như Thục đạo thiên
Đãn
kiến vân hoành tam tuấn lĩnh
Bất
tri nhân tại kỷ trùng thiên
Lãnh
triêm tu phát phi đồng tuyết
Thấp
tiễn y thường khởi thị tuyền
Duy
nguyện hải phong xuy tác vũ
Chính
nghi thiên lý nhuận tang điền
Đạo
nhân thư
Nguyễn
Phước Hải Trung dịch thơ:
Mây
xuân trên Ải Lĩnh
Xung
yếu về Nam có núi này
Khác
chi đất Thục điệp non xây
Bóng
giăng, chỉ thấy ba tầng lớn
Người
ở, nào hay mấy đỉnh mây
Mi
tóc lạnh, dù không tuyết rụng
Áo
xiêm ngâm, dẫu chẳng nguồn vây
Chỉ
mong gió bể đem mưa tới
Muôn
dặm dâu xanh bát ngát bày
– Đạo nhân viết
Ðại
Nam nhất thống chí,
bản in đời Duy Tân (1907 – 1916), có khắc in bốn câu đầu của bài thơ này, nhưng
trong các câu phá thừa có khác mấy chữ so với bài thơ viết
trên tô sứ ký kiểu thời chúa Nguyễn Phúc Chu.[26] Ðại Nam nhất thống chí cũng
xác nhận tác giả bốn câu thơ này là Hiển Tông hoàng đế, tức là chúa Nguyễn Phúc
Chu.
Thảo
luận thêm về hai chữ Việt Nam xuất hiện trước năm 1804
Theo
Nguyễn Minh Tường, tác giả bài viết Trở lại vấn đề quốc hiệu Việt Nam
có từ bao giờ? Đăng trên tạp chí Xưa & Nay (số
559, tháng 1.2024, 21-27), thì hai chữ Việt Nam (越南) có trong các thư tịch
đã dẫn trên đây, như: Việt Nam thế chí (越南世志) do Hồ Tông Thốc
biên soạn vào cuối thế kỷ XIV, Hải Vân hải môn lữ thứ (海雲海門旅次) do vua Lê Thánh
Tông sáng tác năm 1470, Trùng tu Bảo Lâm tự bi ký (乘修寶林寺碑) do viên Đông Các hiệu
thư họ Ngô biên soạn năm 1559, Quy lão ký Lại bộ Thương thư Tô Khê Bá (歸老寄吏部尚書蘇溪伯) do Nguyễn Bỉnh
Khiêm viết năm 1577, Cam Lộ tự bi (甘露寺碑) do Dương Chuân biên
soạn năm 1589, Trùng tu Đại Bi tự (重修大悲寺) do Ngô Nhân Triệt
soạn vào năm 1639, Vân La tự bi (雲羅寺碑) do Dương Cảo soạn
vào năm 1655, Thể tồn bi ký (体存碑記) [vô danh] biên soạn
vào năm 167)… , chỉ là danh xưng, không phải là quốc
hiệu của nước ta. Nguyễn Minh Tường khẳng định: “Đến ngày 17
tháng 2 năm Giáp Tý (tức tháng 3.1804), Việt Nam mới
chính thức được vương triều Nguyễn đặt làm quốc hiệu của nước ta… Các danh
xưng Việt Nam, trước năm 1804, chỉ là tên gọi không chính
thức của nước ta trong sử sách, văn thơ… mà thôi”.[27]
Ngoài
các thư tịch cổ có hai chữ 越南 đã được dẫn ra trên đây, có một tài
liệu gián tiếp được dẫn bởi tác giả Đỗ Bang trong một bài viết in trên tạp
chí Thế Giới Mới vào năm 1994, đề cập một bản tuyên cáo về việc
đổi quốc hiệu của nước ta từ An Nam (安南) sang Việt
Nam (越南) trong tác phẩm Dụ Am văn tập của
Phan Huy Ích. Theo tác giả Đỗ Bang, trong Dụ Am văn tập, Phan Huy
Ích có chép [Việt dịch]: “vâng mệnh vua soạn thảo bản tuyên cáo về quốc hiệu
mới”. Vì Phan Huy Ích là văn thần thân tín của vua Quang Trung, nên tác giả
cho rằng “việc đổi quốc hiệu nước ta thành Việt Nam có từ
triều Tây Sơn”.[28]
Tuy
nhiên, Dụ Am văn tập là trước tác của Phan Huy Ích, trải dài từ
lúc ông này làm quan cho triều đình Tây Sơn, đến khi ông quy hàng vua Gia Long
và được vua lưu dụng, cho làm văn thần chuyên soạn các biểu văn bang giao với
nhà Thanh, nên theo tôi, câu Phan Huy Ích viết: “vâng mệnh vua soạn thảo bản
tuyên cáo về quốc hiệu mới”, thì vua ở đây là vua Gia Long,
không phải là vua Quang Trung, như tác giả Đỗ Bang suy diễn trong
bài viết nói trên.
Về
hai chữ 越南 trong hai bài thơ Hà Trung yên vũ (河中烟雨) và Ải Lĩnh
xuân vân (隘嶺春雲) của chúa Nguyễn Phúc Chu, từ trước đến nay,
khi dịch hai chữ 越南này, phần lớn các nhà dịch thuật Hán – Nôm đều
cho rằng hai chữ 越南này không chỉ quốc hiệu nước ta thời
chúa Nguyễn (vì như đã đề cập ở phần đầu bài viết, thì đến năm 1804,
vua Gia Long mới chọn hai chữ 越南 làm quốc hiệu nước ta).
Vì
vậy, họ thường dịch hai chữ 越南 sang Việt ngữ là: “đi/vượt về phía
Nam”, hay “vùng đất phương Nam của nước Việt”, ngoại trừ các dịch giả
sách Đại Nam nhất thống chí (Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh
hiệu đính, Nxb Thuận Hóa, 1992), thì cho rằng hai chữ 越南 trong bài thơ 隘嶺春雲 (Ải lĩnh xuân vân)
là chỉ tên nước Việt Nam, khi dịch câu: 越南險隘此山巔 (Việt Nam hiểm ải
thử sơn điên) là: Núi này ải hiểm đất Việt Nam.[29]
Theo
tôi, việc xuất hiện hai chữ 越南 trong hai câu thơ: 越南亦有瀟湘景 (Việt Nam diệc hữu
Tiêu Tương cảnh) trong bài thơ Hà Trung yên vũ (河中烟雨) và 越南衝要此山巔 (Việt Nam xung yếu
thử sơn điên) trong bài thơ Ải lĩnh xuân vân (隘嶺春雲) viết trên đồ sứ ký
kiểu, có thể chúa Nguyễn Phúc Chu đã không dùng hai chữ 越南 với ý nghĩa là “đi/vượt
về phía Nam” hay “vùng đất phương Nam của nước Việt”, như nhiều người
từng nghĩ.
Nguyễn
Phúc Chu là vị chúa đã chủ trương xóa tên nước Chiêm Thành để đổi làm trấn Thuận
Thành (về sau đổi làm phủ Bình Thuận), chủ trương chia đất cũ của Chân Lạp
thành hai dinh: Phiên Trấn và Trấn Biên, nhằm xóa bỏ tất cả những ảnh hưởng còn
sót lại của hai vương quốc lân bang đã bị các triều đại Đại Việt thôn tính, thì
việc đặt cho vùng đất do các chúa khai phá và cai quản ở Đàng Trong một quốc hiệu
mới là越南 (Việt Nam), không phải là một khả
năng không được tính đến?
Cũng
cần nhắc lại rằng, năm 1701 chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai Hoàng Thần và Hưng Triệt
đem quốc thư và cống phẩm sang Trung Hoa để cầu nhà Thanh phong cho ông làm vua
một quốc gia riêng biệt, tách hẳn khỏi Đàng Ngoài, để thấy cái ước vọng lập cho
mình một quốc gia riêng, có quốc hiệu riêng, đã hiện hữu mạnh mẽ trong tâm trí
của Nguyễn Phúc Chu như thế nào!
Vậy
thì cũng nên đặt lại vấn đề: Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào? mà
nhiều nhà sử học Việt Nam đã nêu ra và đã gây nên những cuộc tranh luận học thuật
rất thú vị trên diễn đàn sử học nước nhà từ những năm 1990 của thế kỷ trước.
Nhân
kỷ niệm 220 năm nước ta chính thức mang quốc hiệu Việt Nam (1804
– 2024, xin mạn phép thảo luận thêm về hai chữ 越南vậy?
------
TS
Trần Đức Anh Sơn hiện đang giảng dạy và nghiên cứu tại trường Đại học Đông Á,
Đà Nẵng, Việt Nam, e-mail: sontda@donga.edu.vn.
Bài
viết được đăng lần đầu trên Tạp chí Khoa học Đại học Đông Á, số 2 (10),
tháng 6/2024, tr. 78-93.
——————-
[1] Trong các sử liệu
của nhà Thanh, tên của người này được viết là 趙大任 (Triệu Đại Nhậm),
nhưng Đại Nam thực lục viết tên người này là 趙大仕 (Triệu Đại Sĩ)
do kiêng tên của vua Tự Đức là 阮福洪任 (Nguyễn Phúc Hồng
Nhậm).
[2] Quốc sử quán
triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, quyển XIV, tờ 36. Bản dịch
của Nguyễn Duy Chính, trong: Từ An Nam sang Việt Nam, Bản thảo chưa
xuất bản, (California: Hoa Kỳ, 2023), 5.
[3] Xem: Triệu Hùng
(chủ biên). Gia Khánh triều thượng dụ đáng, Đệ lục sách, (Quảng
Tây Sư phạm xuất bản xã, 2000), 329. Dẫn theo: Nguyễn Duy Chính, Tài liệu
đã dẫn, 6.
[4] Quốc sử quán
triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Chính biên, Đệ nhất kỷ, Quyển XVII,
tờ 8. Bản dịch của Nguyễn Duy Chính, Tài liệu đã dẫn, 10.
[5] Quốc sử quán
triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, Quyển XVIII, tờ 9. Bản
dịch của Nguyễn Duy Chính, Tài liệu đã dẫn, 30.
[6] Tức tỉnh Quảng
Tây, Trung Quốc.
[7] Xem: Triệu Hùng
(chủ biên), Gia Khánh triều thượng dụ đáng, đệ thất sách, Quảng Tây
Sư phạm xuất bản xã, 2000, tr. 469. Dẫn theo: Nguyễn Duy Chính, Tài liệu
đã dẫn, 28.
[8] Hồ Bạch Thảo, Những
sử liệu liên quan đến việc đặt tên nước Việt Nam, www.talawas.de, 26.8.2005.
[9] Tức Lưỡng Quảng,
gồm Quảng Đông và Quảng Tây.
[10] Quốc sử quán
triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, Quyển XXIII, tờ 2-3. Bản
dịch của Nguyễn Duy Chính, Tài liệu đã dẫn, 31.
[11] Quốc sử quán
triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Chính biên, Đệ nhất kỷ, Quyển
XXIII, tờ 12. Bản dịch của Nguyễn Duy Chính, Tài liệu đã dẫn, 44.
[12] Quốc sử quán
triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Chính biên, Đệ nhất kỷ, Quyển
XXIII, tờ 13. Tài liệu đã dẫn, 45.
[13] Việt Nam thế
chí (越南世志) là cuốn sách sử biên soạn về các đời vua của
nước ta, nhưng đã thất truyền, chỉ còn lưu lại bài Việt Nam thế chí tự (越南世志序), là bài tựa của cuốn
sách này. Bài tựa này được Trần Văn Giáp phiên âm, biên dịch và giới thiệu
trong biên khảo Lược truyện các tác gia Việt Nam. Xem: Trần Văn
Giáp (Chủ biên), Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập 1, (Hà Nội:
Sử học, 1963), 216.
[14] Nguyễn Minh Tường,
“Trở lại vấn đề quốc hiệu Việt Nam có từ bao giờ?”, Tạp chí Xưa &
Nay, Số 559, Tháng 1.2024, 21.
[15] Nguyễn Minh Tường,
“Bài đã dẫn”, 21.
[16] Đinh Khắc Thuân
(Sưu tầm, khảo cứu dịch chú), Văn khắc Hán Nôm thời Mạc, (Hà Nội:
Khoa học xã hội, 2017), 125. Dẫn theo: Nguyễn Minh Tường, “Bài đã dẫn”, 21.
[17] Thơ văn Nguyễn
Bỉnh Khiêm, (Hà Nội: Văn học, 2014), 698. Dẫn theo: Nguyễn Minh Tường, “Bài
đã dẫn”, 21.
[18] Đinh Khắc
Thuân, Sách đã dẫn, 466. Dẫn theo: Nguyễn Minh Tường, “Bài đã dẫn”,
22.
[19] Nguyễn Văn An,
“Tiến sĩ Ngô Nhân Triệt – Người soạn tấm bia ghi khắc tên Việt Nam ở chùa Kim
Liên”, Tạp chí Xưa và Nay, số 517, tháng 3.2020, 39. Dẫn theo: Nguyễn
Minh Tường, “Bài đã dẫn”, 22.
[20] Nguyễn Văn An,
“Phát hiện tấm bia đá ghi tên nước Việt Nam tại Kinh Bắc”, Tạp chí Xưa
và Nay, Số 512, Tháng 10.2019, 48, 60. Dẫn theo: Nguyễn Minh Tường, “Bài đã
dẫn”, 22.
[21] UBND thị xã Lạng
Sơn, Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao Lạng Sơn, Văn bia xứ Lạng,
(Lạng Sơn, 1993), 225-232; Hồng Vân, “Bia Thủy Môn đình, dấu ấn chủ quyền nơi
phên dậu Tổ quốc”, https://vnexpress.net/bia-thuy-mon-dinh-dau-an-chu-quyen-noi-phen-dau-to-quoc-3351996.html.
[22] Hà Trung là một
đầm nước lớn thuộc huyện Phú Vang, đến năm Minh Mạng thứ 15 (1834) thì đổi nhập
vào huyện Phú Lộc (thuộc phủ Thừa Thiên xưa). Ngày trước vua chúa nhà Nguyễn và
các tao nhân mặc khách thường đi thuyền về Hà Trung ngắm cảnh non nước hữu
tình, làm thơ đề vịnh và thưởng thức hải sản trong đầm. Năm Thiệu Trị thứ 3
(1843), vua Thiệu Trị đã sáng tác bài thơ Hải nhi quan ngư (海兒觀魚) khắc vào bia đá dựng
ở ven đầm và xếp đây là một trong 20 cảnh đẹp của đất thần kinh (Thần kinh
nhị thập cảnh). Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống
chí, Tập 1, Phạm Trọng Ðiềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, (Huế: Thuận Hóa,
1992), 151.
[23] Chiếc tô sứ ký
kiểu có viết bài thơ Hà Trung yên vũ của chúa Nguyễn Phúc Chu,
hiệu đề清玩
(Thanh ngoạn) viết theo lối chữ triện (zhuanshu), hiện thuộc sưu
tập của ông Trần Đình Sơn ở TP. Hồ Chí Minh.
[24] Ải Lĩnh là
dải núi ở nằm ở phía tây nam kinh đô Huế, nay là ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên
Huế và thành phố Đà Nẵng. Từ thế kỷ XVI trở về sau, đường thiên lý Bắc – Nam đều
đi qua dải núi này. Chính quyền thời chúa Nguyễn cho xây một cửa ải trên núi,
nên núi có tên là Ải Lĩnh. Dân gian thường gọi núi này là Ngải
Lĩnh vì trên núi có mọc nhiều cây ngải, tương truyền đến mùa hoa nở,
gió thổi bay xuống biển, cá ăn được sẽ hóa thành rồng. Năm 1826, vua Minh Mạng
cho xây lại ải, gồm hai cửa. Cửa trước có tấm biển đá khắc ba chữ Hán: 海雲關 (Hải Vân quan).
Từ đó, quen gọi là núi (hay đèo) Hải Vân. Cửa sau cũng có tấm biển đá, khắc
dòng chữ Hán: 天下弟一雄關 (Thiên hạ đệ nhất hùng quan).
[25] Đến nay, tôi đã
thống kê được 5 chiếc tô sứ ký kiểu có viết bài thơ Ải Lĩnh xuân vân của
chúa Nguyễn Phúc Chu. Các tô sứ này đều có hiệu đề Thanh ngoạn viết
theo lối chữ triện, ký kiểu vào thế kỷ XVIII, thuộc các sưu tập của: Bảo tàng Cổ
vật Cung đình Huế (TP. Huế, Việt Nam), Nguyễn Hữu Hoàng (TP. Huế, Việt Nam), Trần
Đình Sơn (TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam), Thomas Ulbrich (Berlin, Đức) và Jochen
May (Neustadt, Đức).
[26] Nguyên văn bốn
câu thơ trong Ðại Nam nhất thống chí như sau: 越南險隘此山巔. 形勢混如蜀道偏. 但見雲橫三峻嶺. 不知人在幾重天 (Việt Nam hiểm
ải thử sơn điên. Hình thế hỗn như Thục đạo thiên. Đãn
kiến vân hoành tam tuấn lĩnh. Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên). Xem: Quốc sử
quán triều Nguyễn, Ðại Nam nhất thống chí, Tập 1, Phạm Trọng Ðiềm dịch,
Đào Duy Anh hiệu đính, (Huế: Thuận Hóa, 1992), 132.
Trên
hai chiếc tô sứ ký kiểu khác, một chiếc có hiệu đề 丙戌年製 (Bính tuất niên
chế), ký kiểu vào năm 1826 đời Minh Mạng, thuộc sưu tập của Vương Hồng Sển
trước đây; và một chiếc có hiệu đề 正德年製 (Chính Đức niên
chế) thuộc sưu tập của Trần Đình Sơn ở TP. Hồ Chí Minh, cũng chép bốn câu đầu
của bài thơ này, giống như bốn câu đầu trong bài thơ có trên những chiếc tô sứ
ký kiểu dưới triều chúa Nguyễn Phúc Chu. Xem: Trần Đình Sơn – Hoàng Anh, Tản
mạn Phú Xuân, (TP. HCM: Trẻ, 2001), 49.
[27] Nguyễn Minh Tường,
“Bài đã dẫn”, 27.
[28] Đỗ Bang, “Quốc
hiệu nước ta có từ bao giờ”, Tạp chí Thế Giới Mới, Số 92, Tháng
5.1994.
[29] Quốc sử quán
triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy
Anh hiệu đính, (Huế: Thuận Hóa, 1992).
No comments:
Post a Comment