Hiến
pháp 1967: Bản hiến pháp tiến bộ và dân chủ nhất trong lịch sử Việt Nam
HOÀNG DẠ
LAN - LUẬT KHOA TẠP CHÍ
APR 26, 2024
https://www.luatkhoa.com/2024/04/hien-phap-1967-ban-hien-phap-tien-bo-va-dan-chu-nhat-trong-lich-su-viet-nam/
6 điểm nổi bật.
Chuyện vốn đã hiển
nhiên đến nhàm: hiến pháp là luật gốc của một quốc gia, đóng vai trò quan trọng
nhất trong việc xác lập luật chơi của hệ thống chính trị. Nó không chỉ là một
tài liệu pháp lý mà còn là một văn bản định hình văn hóa và giá trị của quốc gia
đó.
Trong thời gian tồn tại của mình, Việt Nam Cộng hòa đã để lại
hai bản hiến pháp mang nhiều giá trị lịch sử và nghiên cứu. Nếu như Hiến pháp
1956 được xem là cơ sở hợp thức hóa sự cai trị độc đoán của chế độ Ngô Đình
Diệm do tập trung quá nhiều quyền lực vào vị trí tổng thống, Hiến pháp 1967
được xem là bản hiến pháp dân chủ và tiến bộ bậc nhất trong lịch sử Việt
Nam.
Ngày 1/11/1963, chính quyền miền Nam Việt Nam do Tổng thống Ngô
Đình Diệm lãnh đạo bị lật đổ thông qua một cuộc đảo chính quân sự. Cuộc đảo
chính đánh dấu sự kết thúc của nền Đệ Nhất Cộng hòa và dẫn đến một giai đoạn
bất ổn kéo dài bốn năm với các chính quyền quân quản được lập ra rồi sụp xuống
liên tục.
Tình trạng bất ổn chính trị chỉ kết thúc khi Quốc hội Lập hiến
gồm 117 đại biểu được thành lập và nhóm họp để soạn thảo hiến pháp mới. Hiến
pháp 1967 là kết quả của quá trình tranh luận và thương thảo sôi nổi của nhiều
nhóm khác nhau trong Quốc hội Lập hiến. Bản Hiến pháp 1967 là viên đá đầu tiên,
đặt nền tảng cho nỗ lực xây dựng một quốc gia dân chủ của nền Đệ Nhị Cộng
hòa.
Tôi may mắn có trong tay những tài liệu quý từ thời lập hiến
1967 để hiểu rõ hơn những trăn trở và suy tư của các nhà lập hiến khi đó. Chẳng
hạn như tài liệu “Thuyết trình về hiến pháp" của Ban nghiên cứu Hiến pháp
Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa, hay cuốn “Hiến pháp chú thích" của
luật sư Trương Tiến Đạt, xuất bản năm 1967 ở Sài Gòn. Dựa trên những tài liệu
quý vốn không còn được lưu hành rộng rãi này, tôi xin giới thiệu đến bạn đọc
sáu đặc điểm nổi bật của bản Hiến pháp 1967. [1]
Hiến pháp 1956 |
Hiến pháp 1967 |
Thiên thứ ba - Tổng thống: 18 điều, khoảng 870
từ. Thiên thứ tư - Quốc hội: 22 điều, khoảng 580
từ. Thiên thứ năm – Thẩm phán: 4 điều, 85 từ. |
Chương IV - Hành pháp: 25 điều, khoảng 570
từ. Chương III - Lập pháp: 21 điều, khoảng 940
từ. Chương V - Tư pháp: 9 điều, khoảng 460 từ. |
Hình: So sánh sơ lược Hiến pháp 1956 và 1967 của Việt Nam Cộng
hòa.
1. Chế độ cộng hòa tổng thống
Một trong những vấn đề gây tranh luận gay gắt nhất ở Quốc hội
Lập hiến là lựa chọn mô hình cộng hòa tổng thống hay cộng hòa đại nghị. Bị ám
ảnh với những hậu quả của việc tập trung quyền hành vào vị trí tổng thống dưới
thời Ngô Đình Diệm, nhiều đại biểu ủng hộ chế độ đại nghị. Tuy nhiên, bác sĩ
Phan Quang Đán cùng các lãnh tụ của Đại Việt Quốc dân Đảng là Nguyễn Ngọc Huy
và Đặng Văn Sung ủng hộ chế độ cộng hòa tổng thống. Các ông cho rằng trong một
xã hội nhiều chia rẽ, bất đồng và luôn bị cộng sản Bắc Việt đe dọa, Việt Nam
Cộng hòa cần một tổng thống mạnh do toàn thể quốc dân bầu lên nhằm ổn định
chính trị và đoàn kết các lực lượng quốc gia dưới ngọn cờ chính nghĩa chống
cộng. [2]
Bản hiến pháp cuối cùng là một sự thỏa hiệp giữa hai phe.
Về mặt đại cương, Hiến pháp 1967 thiết lập chế độ cộng hòa tổng
thống. Tổng thống nắm quyền hành pháp và được nhân dân trực tiếp bầu lên theo
lối phổ thông đầu phiếu, có nhiệm kỳ bốn năm và có thể được tái cử một lần.
Tổng thống được trao cho nhiều quyền, bao gồm quyền hoạch định
chính sách quốc gia, đề xuất các dự thảo luật và ban hành các đạo luật, là tổng
tư lệnh tối cao của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và có quyền ký sắc luật tuyên bố
tình trạng báo động, giới nghiêm trên một phần hay toàn lãnh thổ. Thủ tướng là
vị trí có ít quyền lực hơn hẳn. Tổng thống có quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm thủ
tướng.
Tuy nhiên, đây không phải là một chế độ tổng thống thuần nhất
với sự phân quyền triệt để giữa hành pháp và lập pháp. So với Hiến pháp 1956,
nhánh lập pháp trong Hiến pháp 1967 được trao nhiều quyền lực hơn, bao gồm
quyền chất vấn và bất tín nhiệm chính phủ. Điều 42 của Hiến pháp 1967 quy định
“Quốc Hội có quyền khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể Chính phủ với đa
số hai phần ba tổng số Dân biểu và Nghị sĩ”. Kỹ thuật giải tán nội các này được
du nhập từ chế độ đại nghị, mục tiêu là khiến cho chính phủ phải chịu trách
nhiệm trước Quốc hội cũng như tăng cường uy quyền của lập pháp trong mối tương
quan với hành pháp.
Như vậy, nội các do thủ tướng đứng đầu, phải chịu trách nhiệm
trước cả tổng thống và Quốc hội. Điều này khiến cho nội các phải chịu cảnh một
cổ hai tròng, không khác nào một nàng dâu phải phục vụ hai mẹ chồng. [3] Có thể
thấy các nhà lập hiến có dụng ý tạo ra vị trí thủ tướng nhằm san sẻ các nhiệm
vụ hành pháp với tổng thống, vừa đứng mũi chịu sào thay cho tổng thống trong
trường hợp Quốc hội bất tín nhiệm và muốn giải nhiệm chính phủ. Nhiệm kỳ cố
định bốn năm của tổng thống được kỳ vọng tạo ra sự ổn định chính trị, ngay cả
khi chính phủ bị giải tán.
Liên danh tranh cử tổng thống và phó tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
và Nguyễn Cao Kỳ trong cuộc họp báo ngày 2/9/1967, một ngày trước ngày tổng
tuyển cử năm 1967. Ảnh: U.S.Information Agency / Wikipedia.
2. Quốc hội lưỡng viện
Lập pháp nhất viện hay lưỡng viện cũng là một trong những chủ đề
gây tranh luận sôi nổi trong Quốc hội Lập hiến. Cuối cùng, ý kiến lưỡng viện
thắng thế, quyền làm luật được ủy nhiệm cho hai cơ quan là Hạ Nghị viện và
Thượng Nghị viện.
Các nhà lập hiến khi đó biện luận rằng chế độ lưỡng viện giúp
dân có nhiều đại diện hơn, quá trình làm luật được tỉ mỉ, kỹ lưỡng hơn. Chế độ
này cũng giúp giảm bớt tính độc đoán, chuyên chế của cơ quan lập pháp vì viện
này sẽ kiểm soát viện kia. Ngoài ra, các nhóm lợi ích muốn mua chuộc, thao túng
Quốc hội cũng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn vì có đến hai viện lập pháp. [4]
Theo Hiến pháp 1967, Hạ Nghị viện gồm một trăm đến hai trăm dân
biểu, được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp theo thể thức đơn danh,
trong từng đơn vị lớn nhất là tỉnh. Thượng Nghị viện gồm ba mươi đến sáu mươi
nghị sĩ, được cử tri toàn quốc bầu lên theo thể thức liên danh đa số. Như vậy
có thể xem Hạ Nghị viện là cơ quan đại diện cho các địa phương, còn Thượng Nghị
viện đại diện cho lợi ích quốc gia.
Dân biểu có nhiệm kỳ bốn năm, trong khi nghị sĩ có nhiệm kỳ sáu
năm. Việc quy định thời gian nhiệm kỳ khác biệt cho dân biểu và nghị sĩ là một
phương pháp thường được áp dụng ở các nước theo chế độ lưỡng viện. Phương pháp
này đảm bảo khi một viện mãn nhiệm thì vẫn còn viện kia làm việc để sự đại diện
của nhân dân trong chính quyền được liên tục và nhiệm vụ giám sát hành pháp của
lập pháp không bị đứt quãng. [5]
Ngoài ra, Hiến pháp quy định cứ mỗi ba năm phải bầu lại phân nửa
số thượng nghị sĩ. Quy định này giúp Thượng Nghị viện thường xuyên được thay
máu để phản ánh kịp thời những biến chuyển trong nhu cầu và mong muốn của cử
tri, nhưng vẫn giữ được một nửa cũ những người đã có kinh nghiệm nghị
trường.
Trên thực tế, Thượng Nghị viện có 60 ghế, bao gồm sáu liên danh
có số phiếu cao nhất, mỗi liên danh gồm 10 người (xem hình tư liệu). Trong số
60 nghị sĩ được bầu vào Thượng Nghị viện vào năm 1967, tức là cuộc bầu cử đầu
tiên sau khi ban hành hiến pháp mới, có 30 nghị sĩ có nhiệm kỳ sáu năm, 30
người còn lại có nhiệm kỳ ba năm. Cách xác định nhiệm kỳ này được tiến hành
theo thể thức rút thăm, ai hên thì được sáu năm, ai xui thì chỉ được ba năm.
Năm 1970, Việt Nam Cộng hòa tổ chức cuộc bầu cử bán phần Thượng viện.
Cả dân biểu và nghị sĩ đều có thể được tái cử chừng nào họ vẫn
được cử tri tín nhiệm. Dân biểu và nghị sĩ không thể kiêm nhiệm một chức vụ
công cử hay dân cử nào khác. Các chức vụ công cử bao gồm mọi vị trí trong bộ
máy nhà nước, ví dụ như bộ trưởng, thẩm phán. Các chức vụ dân cử bao gồm các vị
trí trong chính quyền do quốc dân bầu lên. Sự bất khả kiêm nhiệm giữa các chức
vụ giúp dân biểu và nghị sĩ độc lập trong việc thực hiện sứ mạng của mình cũng
như gia tăng tính minh bạch và công bằng của quy trình lập pháp.
Ngoài ra, Khoản 7 Điều 37 quy định: “Dân biểu, Nghị sĩ và người
hôn phối không thể tham dự những cuộc đấu thầu hay ký hợp đồng với các cơ quan
chính quyền”. Quy định này giúp ngăn chặn các xung đột lợi ích có thể khiến các
đại biểu dân cử đưa ra các quyết định thiên vị và tư lợi cá nhân. Một đại biểu
có các lợi ích tài chính, kinh tế liên quan đến chính quyền thì sẽ không thể
thực hiện nhiệm vụ của mình một cách vô tư, độc lập được nữa.
Có thể thấy các nhà lập hiến đặt trọng tâm vào việc xây dựng một
đội ngũ các đại diện dân cử độc lập, chuyên nghiệp, ngăn chặn xung đột lợi ích
và đảm bảo tính minh bạch trong việc sử dụng nguồn lực và quyền lực công.
No comments:
Post a Comment