Viết tiếp về sự suy tàn của Phật giáo Việt Nam
Nguyễn Khoa
07/07/2023
https://baotiengdan.com/2023/07/07/viet-tiep-ve-su-suy-tan-cua-phat-giao-viet-nam/
Năm 2022, tôi có một bài viết về vấn đề này trên trang
Viet-Studies: Sự suy tàn của Phật giáo Việt Nam. Người chủ trang là
giáo sư Trần Hữu Dũng qua đời, trang Viet-Studies chấm dứt hoạt động. Tôi xin
chân thành cảm ơn trang Tiếng Dân cho phép tôi lên tiếng về chủ đề này lên
trang của quý vị.
Phật
giáo Việt Nam hải ngoại trăm hoa đua nở
Trong bài viết trước, tôi có đề cập đến sự tàn phai của Phật giáo Việt
Nam trong nước, cũng như nói đến một số điều liên quan đến Phật giáo Việt Nam hải
ngoại, đó là xa rời giới trẻ, thiếu tăng ni,… trong bài viết này, tôi xin đi
sâu hơn vào Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại.
Vào khoảng năm 2015-2016, tôi đi cùng một người bạn đến một ngôi chùa Việt
Nam ở vùng Portland, Oregon. Đây là lần “đi chùa” đầu tiên của tôi sau hàng chục
năm không đi bất cứ một ngôi chùa nào, trong cũng như ngoài nước, dù rằng tôi vẫn
tự nhận mình là một Phật tử.
Lúc đó vào ban đêm, bước đến cổng chưa, tôi giật mình trước cảnh một “lâu
đài” tráng lệ và đặc biệt là đèn đuốc sáng choang. Người ta nói với tôi rằng,
đây là đám tang của mẹ vị thầy trụ trì và đám tang kéo dài như thế suốt ba ngày
đêm liền.
Theo những gì tôi hiểu về đạo Phật thì cái chết là một sự chuyển hóa, và
hơn hết là đạo Phật chủ trương diệt cái tôi “vĩ đại” trong từng con người. Cớ
sao cái “tôi” của bà cụ, và qua đó của vị trụ trì, lại được rầm rộ như thế kia?
Tôi không bước vào chùa, mặc dù có một vị sư còn trẻ, béo tốt, lạch bạch
đi ra mời chúng tôi vào. Tôi từ chối, ngồi ngoài chờ bạn.
Quyền
lực của các thầy
Phật giáo Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, phần nhiều theo tông phái
Tịnh Độ. Trong bài viết lần trước trên Viet-Studies, tôi có nhắc đến sự thích hợp
của tông phái này trong văn hóa Khổng Mạnh của Việt Nam và Trung Hoa, trong đó
lễ nghi, trật tự rất được đề cao.
Lễ nghi, trật tự, hay lời niệm Phật lặp đi lặp lại, được xem như một tha
lực (lực bên ngoài) giúp đỡ các Phật tử tu tập. Với cái tha lực đó, hiển nhiên
quyền lực của các vị thầy, nhất là thầy trụ trì, trở nên rất lớn, vì chính các
vị thầy tượng trưng cho tha lực.
Một lần nọ, tôi chứng kiến quyền lực ấy một cách rất khôi hài. Một vị hòa
thượng từ Việt Nam, được một hòa thượng khác ở Mỹ mời sang giảng pháp. Trong một
buổi lễ, trước công chúng khá đông đúc, vị đến từ Việt Nam lớn tiếng yêu cầu
(ra lệnh) một số Phật tử quỳ xuống trước vị ở Mỹ để… xin ảnh của vị này về thờ.
Không nơi nào trong kinh luật nói rằng, Phật tử phải thờ phụng ảnh của
các hòa thượng như thế.
Cái cảnh khôi hài mà vị hòa thượng đến từ Việt Nam … đạo diễn, chỉ có thể
hiểu là để làm vui lòng người “gia chủ” ở Mỹ, mà nếu không có vị “gia chủ” thì
lấy ai bảo lãnh vị hòa thượng từ Việt Nam sang Mỹ… “hành đạo”?
Tại một số chùa ở Mỹ, quyền lực của các thầy trụ trì biến thành một loại
nepotism (gia đình trị), khi các thầy đưa con cháu, người thân của mình, giữ những
chức trách trong chùa. Có một ngôi chùa lớn vùng California, các vị thầy trong
chùa là anh em ruột với nhau. Trong một chùa khác, các tăng ni cấp thấp là cháu
xa, cháu gần của thầy trụ trì.
Trong tình hình ở Việt Nam hiện nay, với hệ thống đảng Cộng sản kiểm soát
và câu kết chặt chẽ với hệ thống tăng lữ Phật giáo, quyền lực của các vị thầy hầu
như tuyệt đối, không chỉ có thần quyền, mà còn là thế quyền, và tài (tiền) quyền.
Nhưng trong xã hội Mỹ, quyền lực ấy gặp phải những phản ứng đáng kể, mà
không có phản ứng nào tích cực cho đạo pháp.
Có nhiều nhóm Phật tử lập ra các “chùa hội”, tức là không phải vị tu sĩ
trụ trì có quyền tuyệt đối. Tại các chùa này xảy ra những cảnh dở khóc dở cười
là các cư sĩ đuổi các tu sĩ, hay buồn cười hơn nữa là các cư sĩ bắt các vị thầy
phải tụng những cuốn kinh mà họ muốn.
Giới trẻ người Việt ở Mỹ phản ứng lại quyền lực của các vị thầy, bằng
cách không đến chùa. Một mặt, những tụng niệm kinh kệ ê a, nghi lễ rườm rà của
Tịnh Độ tông làm cho giới trẻ không đến vì không hiểu gì. Mặt khác, giới trẻ
cũng phản ứng lại thái độ “ông chủ nắm linh hồn” của các thầy, phản ứng lại sự
cao ngạo không giấu giếm của họ. Một Phật tử trẻ nói với tôi rằng: “Tôi
không đi chùa vì các thầy thấy ghét quá”.
Sự ngạo mạn của các thầy chắc chắn có một phần lớn đến từ tri kiến yếu
kém của họ. Trong một bài viết, cũng về sự suy tàn của Phật giáo Việt
Nam, luật
sư Nguyễn Hữu Liêm, sống tại Mỹ, viết rằng: Các tu sĩ non nớt với
vốn văn hóa khiêm tốn, nhân cách chưa trưởng thành, không thể là ngọn đuốc khai
sáng cho mình và thế gian; trái lại, rất đông đã trở nên đầu mối hỏa hoạn cho
làng xóm.
Hệ thống chùa Việt Nam ở Mỹ đã trở nên “đời” hơn. “Đời” ở đây không phải
là sự dấn thân của Phật giáo để làm dịu nỗi khổ của người đời, mà cảnh chùa trở
thành một xã hội thu nhỏ, có tranh giành quyền lực, rồi tiền bạc tài sản (tư bản
mà). Hãy đến chứng kiến các buổi tiệc gây quỹ ở các chùa, chúng ta cũng thấy những
câu đùa sống sượng như ở các tiệc cưới, rồi đấu giá tranh, ảnh Phật… loạn xạ cả
lên. Rất đời.
Khi quyền lực trở nên tuyệt đối thì sự tha hóa cũng sẽ tuyệt đối.
Phật
tử bình dân và dân túy Phật giáo
Quyền lực này càng ghê gớm hơn nữa trong bối cảnh thiếu tri thức của rất
đông tín đồ Tịnh Độ tông.
Tại hải ngoại, nếu bạn đến các ngôi chùa Việt Nam, bạn sẽ thấy những đầu
tóc bạc phơ. Khi các đầu tóc ấy hóa thân thì các ngôi chùa Việt Nam cũng sẽ chấm
dứt tồn tại. Nhưng việc ấy hãy còn lâu, vì dòng nhập cư vẫn diễn ra. Người Mỹ gốc
Việt tiếp tục bảo lãnh cha mẹ, ông bà của họ sang Mỹ. Mà không chỉ người lớn tuổi,
người trẻ tuổi cũng đi. Điều đáng chú ý là thành phần trẻ người Việt di cư sẽ
là thành phần ít học, phần đông sống ở quê nghèo, vì với hiện tình kinh tế Việt
Nam hiện tại, bộ phận cư dân trẻ có học ở thành thị, cảm thấy rằng họ không cần
di cư.
Vì thế “đại chúng” của các chùa Việt ở Mỹ tiếp tục là những đám đông lớn
tuổi, hoặc trẻ nhưng thiếu kiến thức, không theo đạo Phật bằng con đường triết
lý, mà bằng niềm tin. Đây chính là môi trường đầy rủi ro cho các kiểu Phật giáo
dân túy phát triển. Tệ hơn, chính là nơi diễn dịch các điển tích ẩn dụ của Phật
giáo theo chiều hướng mê tín, dị đoan, ma quỷ hoang đường.
Có thể tôi chỉ nhìn thấy một mặt của tình hình Phật giáo Việt Nam ở hải
ngoại hiện nay. Những gì tôi thấy không đại diện được cho Phật giáo Việt Nam hải
ngoại.
Tôi mong rằng mình sai, sai càng nhiều càng tốt, vì nếu tôi đúng thì còn
gì là Phật giáo Việt Nam!
****
Sự
suy tàn của Phật giáo Việt Nam
Nguyễn Khoa
25-8-2022
https://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenKhoa_SuyTanPhatGiao.html
Không có gì chứng minh rõ hơn sự suy thoái của Phật giáo Việt Nam bằng những
ầm ỷ, lộn xộn xung quanh nhà sư Thích Trúc Thái Minh (có tin đồn ông là sĩ quan
công an), trụ trì chùa Ba Vàng tại Quảng Ninh: việc ông tổ chức “cúng dường
hoành tráng” theo nghi thức Phật giáo nguyên thủy, việc ông bị Giáo hội Phật
giáo Việt Nam kỷ luật trước đó, việc ông được (bị) điều về Quảng Bình, việc lời
qua tiếng lại giữa nhà sư Thái Minh và một nhà sư khác là Thích Nhật Từ, việc
các cơ quan công quyền Quảng Bình, Quảng Ninh,… dính líu tới phật sự,...
Những tin tức mới nhất này dù ồn ào nhưng không làm ngạc nhiên những ai
có quan tâm tới Phật giáo Việt Nam trong mấy chục năm qua.
Phật giáo Việt Nam đang trên con đường tự sát. Một sự tự sát ngọt ngào
trong những ngôi chùa hoành tráng như Ba Vàng, Bái Đính,… giữa những tượng Phật
vĩ đại dựng lên khắp mọi miền đất nước, giữa hàng tỷ đồng cúng dường từ dân
chúng.
Thủ phạm trực tiếp của sự tự sát này, dĩ nhiên là từ sự can thiệp thô bạo
của bộ máy toàn trị trên cả nước từ mấy chục năm nay, nhưng theo quan điểm của
tôi, sự suy vong của Phật giáo Việt Nam, cũng như sự suy sụp của văn hóa Việt
Nam, có nguyên nhân nội tại, lịch sử, chứ không hoàn toàn là do chế độ cộng sản.
Chế độ cộng sản chỉ đóng vai trò là chất kích thích cho sự tàn tạ ấy. Sự tồn tại
của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam, với sự phá phách văn hóa của nó, phải được
đặt câu hỏi là tại sao nó lại tồn tại và có thể phá phách như thế? Phải chăng
là do dân tộc này có những điều kiện để “cúng dường” nó!
Lịch
sử vinh quang và bi thương
Phật giáo đã từng hưng thịnh ở Việt Nam gần 400 năm với hai triều đại Lý,
Trần vùng châu thổ sông Hồng, và triều đại Indrapura vùng Quảng Nam. Những điều
tốt đẹp của văn hóa Việt Nam hiện nay, có thể nói không ngoa, chính là những gì
bắt nguồn từ những thời đại ấy, sống còn qua năm tháng. Các thiền sư người Việt,
các nhà sư người Chàm, góp phần không nhỏ trong việc giữ nền độc lập quốc gia
trước sự bành trướng của đế quốc Mông Cổ thế kỷ 13.
Văn hóa Lý Trần bị nhà Minh Trung Quốc tàn phá. Văn hóa Indrapura bị
chính Đại Việt đời Lê tàn phá.
Câu hỏi đặt ra là tại sao Phật giáo Việt Nam không hồi phục được sau khi
Lê Lợi khôi phục quyền tự chủ?
Rất khó để tìm nguyên nhân của một biến cố lịch sử văn hóa như thế mấy
trăm năm trước.
Tôi xin đề ra hai nguyên nhân, thứ nhất là sức mạnh tàn bạo của Khổng
giáo Trung Hoa, mà đại diện của nó là nhà Minh với cuộc xâm lăng, và sự hủy diệt
văn hóa Phật giáo Đại Việt. Thứ hai là sự huy hoàng thời Lý Trần của Phật giáo
Đại Việt đã làm hại chính nó, một khi quyền lực của giới tăng lữ Phật giáo tăng
lên quá lớn. Đây là điều đáng tiếc, vì Phật giáo vốn không phải là một tôn giáo
có cấu trúc tôn ti trật tự như những tôn giáo lớn khác trên thế giới, nhưng một
khi đã hình thành một tầng lớp giáo phẩm, thì tai ương tiềm tàng cũng hình
thành một cách song song.
Sự tàn tạ của phái Mật tông tại Tây Tạng cũng có nguyên nhân tương tự.
Quyền uy tột bực của các nhà sư Miến Điện đã làm cho họ đạp đổ tất cả những gì
là từ bi hỷ xả của Phật giáo, nhúng tay vào cuộc diệt chủng đồng loại người
Rohyngia.
Triều đại Hậu Lê của Đại Việt không còn coi trọng Phật giáo nữa. Nhưng Phật
giáo vẫn sống còn, lay lắt trong hàng thế kỷ. Hàng thế kỷ ấy để lại cho chúng
ta không ít di tích văn hóa Phật giáo sống động như chùa Tây Phương, nhưng cũng
để lại những bài thơ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương:
Nào nón tu lờ nào mũ thâm
Đi đâu chẳng đội để ong châm
Đầu sư há phải gì… bà cốt
Bá ngọ con ong bé cái lầm
hay là
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Làm chi một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
Có lẽ không có điều gì làm cho những hành giả theo chân đức Thích Ca đau
đớn hơn những bài thơ này.
Đến đời Nguyễn, Phật giáo được phục hồi, nhưng lợi bất cập hại. Những nhà
sư lại được các ông vua khổng giáo của triều đại này dời vào cung cấm. Lại là
quyền lực, lại là sủng ái.
Diện mạo tinh thần của Phật giáo Việt Nam hiện nay có lẽ là mang hình
bóng rất rõ của triều đại nhà Nguyễn, mà nổi bật nhất là môn phái Tịnh Độ (Pure
Land) phát triển lấn át hẳn các phái khác. Thiền tông vốn rất mạnh mẽ thời Lý
Trần, nay hầu như vắng bóng. Có thể sự phát triển của Tịnh Độ, với nhiều thủ tục
cúng kiến, chuông mõ, tụng niệm,… là phù hợp với trật tự khổng giáo, đồng thời
bỏ qua phần lý tính vốn có của triết học Phật giáo, mà đi vào niềm tin, điều mà
nhà cầm quyền cần, và công chúng bình dân cũng cần.
Cố
gắng chấn hưng dang dở
Giai đoạn thuộc địa Pháp, một cách trớ trêu lại làm tỉnh thức Phật giáo
Việt Nam, mà điển hình là phong trào chấn hưng Phật giáo do bác sĩ Lê Đình
Thám, một người tây học, dấy lên ở miền Trung. Tinh thần lý tính phương Tây
đánh thức các phật tử Việt Nam, rằng họ vẫn còn sở hữu một di sản văn hóa, tinh
thần, tâm linh, và triết học rất sâu sắc.
Có thể nói rằng nếu không có bác sĩ Lê Đình Thám và phong trào của ông,
thì Việt Nam khó mà có được các gương mặt Phật giáo lớn đương đại, như Thích Nhất
Hạnh, Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Tuệ Sỹ, Thích Minh
Châu, Thích Thiện Châu,… trong đó thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những
nhà sư Phật giáo lớn của thế giới.
Sức sống mãnh liệt được hồi phục của Phật giáo Việt Nam được thấy rõ nhất
trong phong trào Phật giáo tại miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam.
Sự hồi phục của Phật giáo Việt Nam chấm dứt với chiến thắng của những người
cộng sản vào ngày 30/4/1975.
Thiền sư Trí Quang bị giam lõng, các vị Huyền Quang, Quảng Độ bị vào tù
ra khám, nặng nề nhất là thiền sư Tuệ Sỹ suýt bị chế độ cộng sản xử tử hình.
Phật
giáo và cộng sản
Bối cảnh lịch sử Việt Nam từ khi có đảng cộng sản xuất hiện tới nay,
trong sự tuyên truyền để giành phần tình cảm dân tộc về phía họ, làm cho người
ta dễ nhầm tưởng là cộng sản là cùng một “giuộc” với Phật giáo, và chống Công
giáo. Sự thực thì chủ nghĩa cộng sản với hệ thống triết học của nó, xa Phật
giáo hơn Công giáo, vì vốn nó ra đời trong truyền thống Ki Tô Do Thái của
phương Tây.
Nhưng đó là một vấn đề khác, không bàn ở đây.
Với quan điểm tự nhận mình là vô thần, và mô hình toàn trị, những người cộng
sản không bao giờ muốn những loại triết học, tư tưởng, tâm linh,… ngoài cộng sản,
cùng tồn tại với mình. Nỗ lực của họ đối với Công giáo không thành công bao
nhiêu vì tôn giáo này có cấu trúc chặt chẽ và được một thế giới phương Tây đứng
đằng sau. Những người cộng sản Việt Nam, vào thời điểm hoang ca nhất của họ,
cũng không xâm nhập được vào nhà thờ Công giáo.
Ngược lại, đối với Phật giáo, lợi dụng cấu trúc lõng lẻo của các tổ chức
Phật giáo, cũng như sự thu phục tình cảm dân tộc trong hai cuộc chiến tranh,
chiến tranh chống Pháp và chiến tranh chống Mỹ, đảng cộng sản dễ dàng thao túng
Phật giáo Việt Nam. Hơn nữa như đã đề cập ở phần trên, sau một thời gian suy
tàn, chỉ còn hình thức giáo phái Tịnh Độ là đa số, với nhiều hình thức lễ bái,
cầu khấn, giải hạn, cầu siêu,...Phật giáo Việt Nam dễ dàng bị lợi dụng như là một
công cụ “thuốc phiện của nhân dân” (câu của Karl Marx, lập lại quan điểm
của Hegel khi bàn về tôn giáo).
Sau kinh nghiệm cứng rắn đốt chùa, đập tượng, đả thực bài phong, trên miền
bắc xã hội chủ nghĩa sau năm 1954, cũng như đàn áp mạnh mẽ chùa chiền tại miền
Nam sau năm 1975, Đảng Cộng sản Việt Nam, phát hiện rằng họ có sẵn trong tay
món thuốc phiện rất hữu hiệu. Họ bắt đầu dung túng tầng lớp sư sãi nhũng lạm,
đưa cho họ quyền lực. Đôi bên cùng có lợi.
Kết quả bây giờ chính là chùa Ba Vàng, chùa Bái Đính, Thích Nhật Từ,
Thích Chân Quang (có lời đồn ông này là họ hàng xa xôi với cố chủ tịch Hồ Chí
Minh ?!), và dĩ nhiên Thích Trúc Thái Minh.
Trong kết quả kiểm tra dân số gần đây nhất, số người Việt Nam tự nhận
mình là tín đồ Ki Tô (Công giáo, Tin Lành), đã vượt qua số người tự nhận mình
là phật tử. Dĩ nhiên ta nên nhìn con số này một cách tương đối, vì số người Việt
không đi chùa, nhưng chịu ảnh hưởng các ý thức Phật giáo khá đông, những người
này có thể không nhận mình là phật tử. Bên cạnh đó việc kê khai nhân khẩu, làm
chứng minh nhân dân, khai lý lịch,… trong một thời gian dài làm cho người ta sợ
hãi khi khai mục tôn giáo, nhiều phật tử cứ đánh vào ô: dân tộc kinh,
tôn giáo không cho nó an toàn. Dù sao đó cũng là một thắng lợi của những
người cộng sản đối với Phật giáo.
Nhưng hữu hiệu nhất vẫn là dùng chính Phật giáo để diệt Phật giáo, với sự
nhũng lạm của khá đông sư sãi nhà nước. Một hệ thống toàn trị Phật giáo, phó sản
của hệ thống toàn trị cộng sản được hình thành, và đang nắm tinh thần cũng như
túi tiền của hàng chục triệu người Việt Nam.
Phật
giáo hải ngoại
Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại cũng không lấy gì làm sáng sủa.
Trên mảnh đất tự do ngôn luận và tự do tôn giáo, nhiều nhà sư Việt Nam tại
Mỹ ủng hộ nhiệt tình cựu tổng thống Mỹ Donald Trump, kẻ phản dân chủ bậc nhất
trong lịch sử nước Mỹ. Có những nhà sư cũng rất tích cực chia sẻ thuyết âm mưu
Qnon rất quái dị, tin vịt thượng vàng hạ cám của tờ Đại Kỷ Nguyên, của nhóm
Pháp Luân Công, một phó sản của sự tàn tạ của Phật giáo Trung Hoa.
Chùa to Phật lớn, cúng kiến linh đình, không phải là độc quyền của các
chùa trong nước. Lớp công chúng phật tử Việt Nam tại hải ngoại hiện nay cũng
như đồng bào họ trong nước, rất ưa chuộng lễ bái cúng kiến theo pháp môn Tịnh Độ.
Việc này làm cho lớp người Việt trẻ tuổi sinh ra và lớn lên ở Mỹ, với tinh thần
duy lý và cấp tiến, cảm thấy xa lạ. Nếu tình trạng này vẫn tiếp tục, thì hàng
hà sa số chùa chiền Việt Nam tại Mỹ hiện nay rơi vào tình trạng phá sản, là một
tương lai không xa.
Không cần kể ra đây hàng chục vụ tranh giành nhà cửa, tài sản, có liên
quan đến những ngôi chùa Việt Nam tại Mỹ, đến các nhà sư, đến mức phải ra tòa.
Tình trạng toàn trị Phật giáo trong nước cộng với thể chế tự do tôn giáo
tại Mỹ còn dẫn đến một việc dở khóc dở cười nữa là có hàng trăm, hàng ngàn tu
sĩ Phật giáo Việt Nam xuất cảnh sang Mỹ theo diện … tôn giáo. Theo những nguồn
tin đáng tin cậy thì không bao nhiêu tu sĩ trong số này thực sự là tu hành, mà
họ chỉ lợi dụng chiếc áo nâu sòng… để đi Mỹ. Sang Mỹ rồi thì nhẹ nhàng là rủ
tín đồ lập chùa riêng, hay thậm chí là trái gió nên phải lộn lèo như
nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương mỉa mai hơn 200 năm trước.
Một nhà sư Việt Nam sống tại Mỹ có tâm sự với tôi rằng ông hồ nghi có một
âm mưu tàn phá Phật giáo Việt Nam từ hàng chục năm qua.
Tôi nghĩ rằng ông lo lắng thái quá. Dĩ nhiên kế hoạch kềm chế Phật giáo của
những người cộng sản thì đã rõ, mà họ cũng đâu có giấu diếm điều đó qua những
tuyên bố mang tính vô thần, duy vật biện chứng (sic) của họ!
Chẳng phải thế giới theo quan điểm Phật giáo là vô thủy vô chung,
theo chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt hay sao?
Tôi vẫn lạc quan về sự tái sinh, bắt đầu chu kỳ mới của Phật giáo Việt
Nam.
No comments:
Post a Comment