Joseph
E. Stiglitz, Project
Syndicate
Biên dịch: Trần Văn Thắng | Hiệu
đính: Nguyễn Huy Hoàng
Posted
on 25/08/2017 by The Observer
Mặc dù các nhà tài phiệt cánh hữu của Hoa Kỳ
có thể bất đồng về cách xếp hạng các vấn đề chính của đất nước – ví dụ như bất
bình đẳng, tăng trưởng chậm, năng suất thấp, nghiện thuốc phiện, các trường học
tồi tàn, và cơ sở hạ tầng xuống cấp – giải pháp của họ lúc nào cũng giống
nhau: giảm thuế và bãi bỏ quy định, để “khuyến khích” các nhà đầu tư và “giải
phóng” nền kinh tế. Tổng thống Donald Trump đang trông đợi vào gói cứu trợ này
để làm nước Mỹ vĩ đại trở lại.
Gói giải pháp này sẽ không có tác
dụng, bởi vì nó chưa bao giờ có tác dụng. Khi thử nghiệm nó vào những năm
1980, Tổng thống Ronald Reagan tuyên bố rằng nguồn thu từ thuế sẽ tăng lên.
Nhưng thay vào đó, tăng trưởng đã chậm lại, nguồn thu từ thuế giảm, và giới
công nhân phải chịu nhiều khó khăn. Những người chiến thắng lớn xét một cách
tương đối là các tập đoàn và người giàu, những người được hưởng lợi từ thuế suất
giảm mạnh.
Trump chưa đưa ra một đề xuất thuế cụ thể.
Nhưng, không như cách tiếp cận của chính quyền ông đối với các quy định về chăm
sóc y tế, sự thiếu minh bạch sẽ không giúp gì cho ông. Trong khi nhiều người
trong số 32 triệu người dự kiến mất bảo hiểm y tế theo đề xuất hiện tại vẫn
chưa biết điều gì sẽ xảy ra, điều đó không đúng với các công ty sẽ chịu thiệt
thòi từ cải cách thuế của Trump.
.
Đây là thế lưỡng nan của Trump. Cải cách thuế
của ông phải duy trì nguồn thu (so với nguồn thu dưới các quy định cũ). Đó là một
đòi hỏi chính trị: khi các công ty đang ngồi trên hàng nghìn tỷ USD tiền mặt
trong khi dân thường gặp khó khăn, giảm mức thuế doanh nghiệp trung bình sẽ
là vô lý – và vô lý hơn nữa nếu thuế được giảm trong lĩnh vực tài
chính, nơi dẫn tới cuộc khủng hoảng năm 2008 và chưa bao giờ phải chi
trả cho những thiệt hại kinh tế. Hơn nữa, các thủ tục của Thượng viện quy định
rằng để ban hành cải cách thuế với một đa số tối thiểu, thay vì đa số ba phần
năm cần thiết để đánh bại một vụ filibuster gần như chắc chắn
được các đảng viên Đảng Dân chủ đối lập tiến hành, cải cách này phải không được
gây ảnh hưởng tiêu cực tới ngân sách trong mười năm.
Đòi hỏi này đồng nghĩa với việc doanh thu thuế
doanh nghiệp trung bình phải giữ nguyên, có nghĩa là sẽ có người thắng cuộc và
người thua cuộc: một số sẽ phải trả ít hơn hiện tại, và những người khác sẽ phải
trả nhiều hơn. Người ta có thể tránh được việc này trong trường hợp thuế thu nhập
cá nhân, bởi vì ngay cả khi những người thua cuộc nhận ra thì họ cũng không có
tổ chức đủ mạnh. Ngược lại, ngay cả các doanh nghiệp nhỏ ở Hoa Kỳ cũng vận động
hành lang ở Quốc hội.
Hầu hết
các nhà kinh tế học đều đồng ý rằng cơ cấu thuế hiện tại của Hoa Kỳ không hiệu
quả và không công bằng.
Một số doanh nghiệp đóng một mức thuế cao hơn nhiều so với những doanh nghiệp
khác. Có lẽ các doanh nghiệp đổi mới tạo ra công ăn việc làm nên được thưởng phần
nào bằng cách giảm thuế. Nhưng lý do duy nhất xem ai được giảm thuế dường
như là sự hiệu quả của các nhà vận động hành lang nhân danh những người
muốn được giảm thuế.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất là
đánh thuế thu nhập từ nước ngoài của các doanh nghiệp Mỹ. Các đảng viên Dân chủ
tin rằng, do các tập đoàn của Mỹ bất kể hoạt động ở đâu đều được hưởng lợi từ
nền pháp quyền và quyền lực của Mỹ để đảm bảo họ không bị ngược đãi (thường
được bảo đảm bởi hiệp định), họ nên trả cho những lợi ích này và những lợi ích
khác. Nhưng cảm giác công bằng và hỗ trợ lẫn nhau, chưa nói đến lòng trung
thành với quốc gia, không ăn sâu trong nhiều công ty Mỹ, và họ phản ứng bằng
cách đe dọa dời trụ sở chính ra nước ngoài.
Các đảng viên Cộng hòa, một phần vì nhạy cảm
với mối đe dọa này, ủng hộ một hệ thống thuế dựa trên lãnh thổ, giống như ở hầu
hết các nước: chỉ áp thuế lên hoạt động kinh tế ở đất nước nó diễn ra. Vấn đề
là, sau khi áp thuế một lần lên lợi nhuận chưa bị tính thuế mà các công ty Mỹ
giữ ở nước ngoài, việc áp dụng một hệ thống thuế dựa trên lãnh thổ sẽ gây ra
thiệt hại về thuế.
Để bù đắp cho điều này, Paul Ryan, chủ tịch Hạ
viện, đã đề xuất thêm một khoản thuế nhập khẩu ròng (nhập khẩu trừ xuất khẩu).
Do nhập khẩu ròng dẫn đến mất công ăn việc làm nên nó không được khuyến
khích. Đồng thời, chừng nào nhập khẩu ròng của Mỹ còn cao như hiện nay, thuế
còn đem lại nguồn thu lớn.
Nhưng khó khăn nằm ở chỗ: tiền phải chảy
ra từ túi ai đó. Giá nhập khẩu sẽ tăng. Người tiêu dùng quần áo giá rẻ từ
Trung Quốc sẽ nghèo còn mắc cái eo. Với đội ngũ của Trump, đây là tổn thất
ngoài dự kiến, cái giá tất yếu phải trả để mang lại nhiều tiền hơn cho các
nhà tài phiệt Mỹ. Tuy nhiên, kể cả các nhà bán lẻ như Walmart, chứ không chỉ
khách hàng của hãng, cũng sẽ chịu một phần tổn thất ngoài dự kiến. Walmart hiểu
điều này – và sẽ không để cho nó xảy ra.
Các cải cách thuế doanh nghiệp khác có thể có
lý; nhưng chúng cũng hàm ý có người thắng kẻ thua. Và chừng nào những kẻ thua
cuộc còn nhiều và được tổ chức đủ mạnh, rất có thể họ sẽ có quyền lực để ngăn
chặn cuộc cải cách.
Một tổng thống sắc sảo về mặt chính trị, hiểu
rõ kinh tế và chính trị của cải cách thuế doanh nghiệp, có thể đẩy Quốc hội đến
một gói cải cách có ý nghĩa. Trump không phải là nhà lãnh đạo đó. Nếu cải cách
thuế doanh nghiệp diễn ra thì đó sẽ là một mớ hổ lốn được mặc cả sau những
cánh cửa đóng kín. Nhiều khả năng hơn là một sự cắt giảm thuế trên diện rộng:
người thua cuộc sẽ là những thế hệ tương lai, không có khả năng vận động hành
lang bằng những kẻ vai vế tham lam ngày nay, mà tham lam nhất trong số đó có những
kẻ thu được gia tài nhờ các hoạt động hèn mạt, như kinh doanh cờ bạc.
Sự đê tiện của tất cả những điều này sẽ được
lấp liếm bằng tuyên bố xưa cũ rằng thuế suất thấp hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng.
Đơn giản là không có cơ sở lý thuyết hoặc thực nghiệm cho điều này, đặc biệt ở
các nước như Mỹ, nơi mà hầu hết đầu tư đều được tài trợ bằng nợ vay và lãi suất
được khấu trừ thuế. Lợi nhuận biên và chi phí biên được giảm tương ứng, khiến đầu
tư phần lớn không thay đổi. Trên thực tế, một cái nhìn gần hơn, có tính đến khấu
hao nhanh và những tác động đối với sự chia sẻ rủi ro, cho thấy giảm thuế suất
rất có thể sẽ làm giảm đầu tư.
Các nước nhỏ là ngoại lệ duy nhất, bởi vì họ
có thể theo đuổi các chính sách lợi mình hại người nhằm lợi dụng công ty
các nước láng giềng. Nhưng tăng trưởng toàn cầu thì hầu như không thay đổi – thật
ra các tác động phân phối có cản trở nó một chút – khi cái được của người này
là cái mất của người khác. (Giả sử người mất không phản ứng và tạo ra một cuộc
đua xuống đáy).
Ở một quốc gia có quá nhiều vấn đề – đặc biệt
là bất bình đẳng – việc cắt giảm thuế cho các tập đoàn giàu có sẽ không giải quyết
được bất cứ vấn đề nào trong số đó. Đây là một bài học cho tất cả các nước dự
tính cắt giảm thuế doanh nghiệp – ngay cả những nước không phải chịu cảnh bất hạnh
là bị dẫn dắt bởi một nhà tài phiệt non kém và hèn nhát.
*
Joseph E. Stiglitz, chủ nhân giải Nobel Kinh
tế năm 2001 và huân chương John Bates Clark năm 1979, là giáo sư tại Đại học
Columbia, đồng chủ tịch Nhóm Chuyên gia Cấp cao về Đánh giá Tình hình Kinh tế
và Tiến bộ Xã hội của OECD, và là kinh tế trưởng của Viện Roosevelt. Ông nguyên
là phó chủ tịch cấp cao và kinh tế trưởng tại Ngân hàng Thế giới và chủ tịch Hội
đồng Cố vấn Kinh tế dưới thời Tổng thống Bill Clinton. Năm 2000, ông thành lập
Sáng kiến Đối thoại Chính sách, một viện nghiên cứu chính sách về phát triển quốc
tế có trụ sở tại Đại học Columbia. Cuốn sách gần đây nhất của ông là The Euro: How a
Common Currency Threatens the Future of Europe.
Nguồn: Joseph E. Stiglitz, “Why
Tax Cuts for the Rich Solve Nothing,” Project Syndicate,
27/07/2017.
Copyright:
Project Syndicate 2017 .
No comments:
Post a Comment