Posted on 31/08/2017
Tổng thống Donald Trump đang phải đối mặt với
một thế giới nơi các thế lực độc tài ngày càng mạnh hơn, trong khi dân chủ ngày
càng bất ổn hơn lúc nào hết trong suốt mấy thập kỷ qua. Ông sẽ phải làm gì? –
Đây chính là một trong những thách thức lớn nhất đối với ngài tổng thống.
·
Phỏng dịch từ Larry
Diamond, Visions
of Democracy, Hoover Institution, 27/1/2017.
Trong khoa học chính trị, các nhà nghiên cứu
cho rằng dân chủ hóa xảy ra theo làn sóng. Làn sóng lớn nhất và cũng xảy ra gần
đây nhất chính là “làn sóng thứ ba” dân chủ hóa, bắt đầu vào giữa những năm
1970 và lên đến đỉnh điểm vào những năm 1990, sau đó bắt đầu suy giảm vào năm
2005. Kể từ đó, tự do và tham dự chính trị ngày càng suy giảm. Đáng kể nhất là
trong cỡ một hai năm qua, vài diễn biến đã làm người ta thêm lo lắng cho tương
lai của nền dân chủ toàn cầu.
Xu hướng độc tài đang lên
Thứ nhất là xu hướng độc tài đã xuất hiện
trong một số nền dân chủ mới nổi, tiêu biểu như Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan và
Philippines trong mấy năm vừa qua.
Thổ Nhĩ Kỳ mới trải qua tình trạng báo động kể
từ cuộc đảo chính quân sự thất bại vào tháng bảy năm ngoái. Tổng thống Recep
Tayyip Erdogan đã bắt giữ khoảng 32 nghìn người được cho là có liên quan đến đảo
chính và hơn 100 nhà báo. Ông cũng thanh lọc hàng chục nghìn công chức, nhân
viên quân sự và cảnh sát ra khỏi chính phủ.
Tới tháng tám cũng năm 2016, quân đội Thái
Lan đã đưa ra một hiến pháp mới – trong đó cấm phe đối lập vận động phản đối –
điều này làm đe dọa nền dân chủ khi trao quyền lực quá lớn cho quân đội.
Nghiêm trọng hơn, kể từ Rodrigo Duterte nhậm
chức tổng thống Philippines hồi tháng sáu cùng năm, hàng nghìn người tình
nghi buôn ma túy đã bị giết mà không thông qua xét xử. Duterte cũng đàn áp những
người phản đối trong nước. Trước những chỉ trích của quốc tế, Duterte thậm chí
còn so sánh mình với Hitler, nói rằng trong khi nhà độc tài nước Đức đã “giết
chết ba triệu người Do Thái”, thì ông “vinh hạnh khi giết chết” ba triệu người
nghiện ma tuý của Philippines.
Người biểu
tình tại Philippines đòi công lý cho các nạn nhân của chiến dịch chống ma túy. Ảnh:
WSJ
Thêm nữa, trong khi các nền dân chủ đang rơi
vào khó khăn, thì các chế độ độc tài lại thêm gây hấn khi đưa các chuẩn mực phản
dân chủ lên sân khấu quốc tế, đồng thời bóp nghẹt đa nguyên chính trị bên trong
quốc gia.
Trong chuyện này thì Nga là nguy hiểm nhất:
Nga biết sử dụng các biện pháp truyền thông xã hội phức tạp để tạo ra những hỗn
loạn, chia rẽ, và nghi ngờ trong các cộng đồng dân chủ, và khiến người ta phải
hoài nghi dân chủ. Đồng thời, hai cường quốc độc tài là Nga lẫn Trung Quốc đã
và đang dùng tới sức mạnh vũ lực để can thiệp vào các vấn đề quân sự, kinh tế
và địa chính trị.
“Thành phố chiếu sáng trên đỉnh đồi”…
Tuy nhiên, có lẽ xu hướng đáng lo ngại nhất
chính là những vấn đề ngày càng thể hiện rõ trong nền dân chủ Mỹ và các quốc
gia phát triển khác ở châu Âu.
Trước kia, nhân tố quyết định trong thành
công của làn sóng dân chủ hóa thứ ba là sức mạnh vô song của mô hình dân chủ Mỹ
– mà tổng thống Reagan, phỏng theo lời thống đốc Mỹ John Winthrop, đã gọi
là “thành phố chiếu sáng trên đỉnh đồi” – thứ đã truyền cảm hứng cho lòng ngưỡng
mộ và noi gương trên toàn thế giới.
Tất nhiên, dân chủ ở Mỹ luôn có nhiều điều
chưa hoàn hảo. Nhưng trong những năm 1980 và 1990, cả thế giới đã chứng kiến nước
Mỹ với một nền kinh tế năng động, một nền chính trị vận hành trơn tru, lại thêm
sự tự tin về mặt đạo đức và siêu cường về mặt quân sự. Và rồi, bức tường Berlin
sụp đổ còn Liên Xô tan rã, tất cả đã khiến Mỹ trở thành siêu cường duy nhất vào
thời điểm các đồng minh dân chủ ở Liên minh châu Âu đang cố gắng thống nhất lục
địa này thành một thị trường chung dựa trên các giá trị và thể chế tự do.
Trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, các giá
trị dân chủ trở nên phổ quát – tức là chúng đã thu hút được phần lớn nhân loại ở
hầu như mọi khu vực trên thế giới – trong khi tất cả các ý thức hệ đối địch dần
rút lui, hoặc bị giới hạn về mặt địa lý (như ở Iran).
Nhờ nguồn hỗ trợ tài chính và chính trị từ
châu Âu và Mỹ trong suốt hai thập kỷ, tự do đã nảy nở, thị trường mở rộng, xã hội
dân sự gia tăng, các thiết chế đại diện được củng cố. Và lần đầu tiên trong lịch
sử loài người, nền dân chủ đã trở thành hình thức chính phủ phổ biến nhất trên
thế giới.
Trong “làn sóng thứ ba” này, dân chủ đã có được
chỗ đứng vững chắc ở châu Phi, châu Á, và hiện diện rộng khắp ở châu Mỹ Latin.
Nhưng chính chất lượng và sự ổn định của nó ở phương Tây mới là nền tảng cho
thành công toàn cầu của nó.
Châu Âu và Mỹ đã trở thành biểu tượng mà các
nền dân chủ mới nổi hướng đến, và các cường quốc dân chủ ở hai xứ này cũng là lực
lượng hỗ trợ để giúp các nền dân chủ non trẻ vươn lên. Do đó, người ta đã mường
tượng rằng thời điểm bước ngoặt của thiên niên kỷ chính là bình minh của một thế
kỷ dân chủ mới.
… đã chìm vào bóng tối?
Giờ đây, cái viễn cảnh ấy đã bắt đầu trở nên
rõ ràng hơn. Dẫu mọi người không hẳn đồng thuận về những gì họ đang chứng kiến,
nhưng thật chẳng có gì phải tranh cãi về tình trạng chủ nghĩa dân túy và các
khuynh hướng phi tự do đang nổi lên ở phương Tây.
Các sự kiện gần đây ở châu Âu quả rất đáng lo
ngại – trên toàn lục địa, các đảng dân túy tìm cách huy động “nhân dân” chống lại
tầng lớp tinh hoa bị cho là tham nhũng. Ở Hungary và Ba Lan, các chính phủ dân
túy cánh hữu đã tiến hành phá hoại tính độc lập của ngành tư pháp, dịch vụ dân
sự và truyền thông. Các đảng chống dân chủ đã giành được nhiều phiếu bầu ở
Hungary và Cộng hòa Séc, trong khi các đảng chống tự do, chống nhập cư, chẳng hạn
như Mặt trận Quốc gia của Pháp và Alternative für Deutschland của Đức, đã đạt
được những thành tựu bầu cử ấn tượng.
Hình
minh họa Brexit. Ảnh: BBC
Tháng sáu năm ngoái, Brexit đã gây ra một cú
sốc nữa – ấy là cuộc trưng cầu dân ý của Anh quốc về việc rời khỏi Liên minh
châu Âu với gần 52% cử tri Anh bỏ phiếu thuận. Đối với những người Anh theo chủ
trương quốc tế, cũng như đối với phần lớn người châu Âu từ lục địa, thì Brexit
là một bước ngoặt khiến cho cái viễn cảnh về một châu Âu dân chủ tự do, hợp nhất,
và toàn diện bỗng trở nên xa vời.
Vào ngày 8 tháng 11, các cử tri ở Mỹ còn gây
choáng váng hơn khi bầu Donald Trump trở thành tổng thống.
Trong thực tế, các nhóm cử tri cốt lõi bỏ phiếu
ủng hộ Brexit và Trump khá tương đồng với nhau: họ là những cử tri da trắng thuộc
tầng lớp lao động với kỹ năng nghề nghiệp và điều kiện giáo dục hạn chế, những
người cảm thấy bị lấn lướt về văn hóa và bị đe doạ về kinh tế bởi các yếu tố
như nhập cư, toàn cầu hóa, sự đa dạng về chủng tộc và văn hoá.
Cả hai cuộc bỏ phiếu đã phô ra mối xung đột
giữa một bên là các thành phố đa dạng văn hoá, bên kia là các khu vực nông thôn
nơi có phần đa dân cư là người da trắng. Cả hai đã khiến các quốc gia của chúng
phân cực hơn trước. Và cả hai đã khoét sâu thêm nỗi lo lắng về tương lai của trật
tự dân chủ tự do.
Quan điểm thực dụng về thế giới
Đứng trước bức màn u ám ấy, liệu chính quyền
mới của Trump có khả năng đối đầu với một cuộc khủng hoảng toàn cầu về dân chủ?
Hay là một làn sóng sụp đổ mới sẽ quét đi những thành tựu dân chủ của hàng thập
kỷ vừa qua?
Còn tùy.
Nếu Trump có thể mang những mưu chước của
mình tới Đồi Capitol để tạo ra sự đồng thuận lưỡng đảng, từ đó giải quyết những
thách thức lớn như sự trì trệ kinh tế, bất bình đẳng về thu nhập và nhập cư,
thì thế giới sẽ được chứng kiến nền dân chủ Mỹ vận hành trở lại – ngay cả khi
nhiều chính sách của Trump gặp phải phản đối trong và ngoài nước.
Thật vậy, nếu tân Tổng thống theo đuổi các đề
xuất ít được chú ý nhưng tiến bộ về cải cách vận động hành lang (lobby), thì
các cựu quan chức Nhà Trắng và Quốc hội khó có thể sử dụng tầm ảnh hưởng của họ
để làm lợi cho các tập đoàn, đặc biệt là làm lợi cho các chính phủ nước ngoài.
Nhờ đó, chất lượng của nền dân chủ Mỹ có thể cải thiện. Và nếu tính thực dụng của
Trump trong chính sách đối ngoại khiến ông nhận ra giá trị của việc hỗ trợ các
đồng minh dân chủ, thì chính quyền của ông có thể giữ cho nền dân chủ khỏi bị
thụt lùi.
Tuy nhiên người ta vẫn còn cảm thấy hoài
nghi: trong suốt chiến dịch của mình, Trump đã nói rõ rằng ông sẽ thực thi một
chính sách đối ngoại thực dụng, trong đó đặt lợi ích của Mỹ lên đầu – chứ không
phải là các can thiệp để lan tỏa giá trị dân chủ.
Các nhà lãnh đạo độc tài như Tổng thống Ai Cập
Abdel Fatah el-Sisi giờ đây có thể cho rằng dưới thời Trump, áp lực dân chủ hóa
như dưới chính quyền Obama sẽ biến mất. Duterte, người đã chào mừng Trump nồng
nhiệt sau đợt bầu cử, rõ ràng đang cảm thấy bớt căng thẳng khi thoát khỏi
Obama, người mà ông gọi là “con của một con điếm” sau khi các quan chức Mỹ bày
tỏ mối quan tâm về các vụ giết người không thông qua xét xử ở Philippines. Sự
im lặng của chính quyền Trump khi đối mặt với những vi phạm nhân quyền như vậy
sẽ làm giảm đáng kể triển vọng dân chủ toàn cầu.
Tuy nhiên, ta vẫn có thể hy vọng. Mỹ đã trở
thành một đất nước vĩ đại có phần nhờ vào địa vị quốc tế của nó: một nền dân chủ
dẫn dắt thế giới. Ronald Reagan hiểu rằng người Mỹ không thể làm cho nước Mỹ vĩ
đại một lần nữa, nếu họ không chịu bảo vệ và phát triển các nguyên tắc của
chính họ trên trường quốc tế. Liệu Trump có hiểu rằng đây chính là một trong những
thử thách quan trọng nhất đối với chính sách đối ngoại của mình?
No comments:
Post a Comment